Ba lần gặp Bác

19:57 19/06/2009
LÊ TRỌNG SÂMTrong cuộc đời của mỗi chúng ta, khi Bác Hồ còn sinh thời, được gặp Bác một lần đã quý. Trong cuộc sống của tôi, do có nhiều hoàn cảnh, nhiều duyên may lại được gặp Bác đến ba lần thì càng quý biết bao nhiêu. Tự đáy lòng, tôi thầm cảm ơn Đảng, cảm ơn Bác đã cho tôi ba lần vinh dự như vậy. Và những kỷ niệm đó vẫn còn tươi nguyên.

Lần thứ nhất. Số là vào tháng 9/1957, khi tôi là sinh viên mới vào học năm đầu khoa Ngữ văn trường Đại học Tổng hợp Hà Nội. Ban giám hiệu báo trước cho tôi một ngày, nói là phải ăn mặc tươm tất để đi dự một cuộc họp quan trọng.

Thì ra là Bác Hồ muốn gặp học sinh và sinh viên miền hai ba năm nay tập kết ra Bắc và đang học tại các trường ở Hà Nội, Hà Đông, Hà , Sơn Tây. Lòng thương yêu và quan tâm của Bác rất sâu sắc khi Bác nghĩ đến những thanh thiếu nhi đang xa miền Nam, xa nhà, xa gia đình thân yêu, chưa quen lạnh rét và cách sống ở miền Bắc. Mà nghe nói lúc đó có nhiều thiếu niên ở miền Nam, ra nhớ nhà lắm, ngày đêm khóc luôn, rồi quậy phá không chịu đi học, đòi trở về Nam nữa.

Chúng tôi vào ngồi trong một gian phòng học rộng của trường trung học Phan Đình Phùng (Hà Nội), chừng 40, 50 em, đại biểu cho các trường miền Nam đã có mặt.

Bác và một số đồng chí lãnh đạo đi vào. Xúc động làm sao khi thấy Bác, thấy dáng người của Bác, bộ áo quần kaki màu vàng hơi cũ, đôi dép lốp nơi chân mặc dù đã bắt đầu vào thu. Đôi mắt Bác sáng, chòm râu bạc lưa thưa. Tất cả chúng tôi đứng dậy, cung kính, im lặng, lắng chờ.

Bác đi một vòng xuống đến các hàng ghế chúng tôi ngồi, tay Bác thoa vào đầu, vào vai mấy bạn ngồi trước, đưa mắt lướt nhìn mọi người, không sót một ai. Bác hiền từ và gần gũi làm sao. Sung sướng thay, tôi ngồi hàng ghế đầu, được Bác sờ vào đầu, tôi run lên vì xúc động. Từ Cách mạng tháng Tám 1945, được thấy ảnh Bác đầu tiên, 12 năm sau, ngày hôm nay, giờ phút cao quí này được thấy Bác, lòng nào không sung sướng.

Bác đứng trước một cái bàn, có micro. Câu đầu tiên Bác hỏi:

- Trời bắt đầu lạnh, các cháu có rét không?

- Thưa Bác, có ạ, tất cả đồng thanh đáp.

- Các cháu đừng lo, Ban Thống nhất và Bộ Giáo dục sẽ lo áo ấm cho các cháu.

Tôi ngước nhìn lên áo Bác, chiếc áo kaki của Bác vẫn còn mỏng lắm.

Bác bắt đầu hỏi chuyện học hành, chuyện ăn ở. Bác đã theo dõi và biết trước khá đầy đủ. Bác nói to hướng về mọi người:

- Bác nghe có nhiều cháu ra đây, nhớ cha mẹ trong nhiều lắm. Bác rất thương, nhưng các cháu cố gắng chịu đựng. Thương nhớ cha mẹ nhiều thì phải lo học. Đó là làm cho cha mẹ vui. Các cháu học để thành cán bộ, thành người tài, làm cho nước nhà mau thống nhất, các cháu sẽ sớm về đoàn tụ gia đình.

Trong lớp học sinh ngồi dưới, có cháu bật khóc. Bác chạy xuống ân cần vỗ về an ủi, giọng Bác cũng đượm buồn.

Bác lại lên bàn, tiếp tục nói:

- Dù có nhớ nhà, các cháu đều phải cố gắng học. Bác nghe một số cháu bỏ học, nằm nhà, các cháu cố gắng lên, không làm như vậy. Lại nghe một số cháu hay quậy phá: ra vườn, trộm sắn khoai về nấu nướng… Bác quay sang các vị lãnh đạo Bộ Giáo dục: phải cho các cháu ăn no, mặc ấm, không để các cháu làm những việc bậy bạ. Đó là trách nhiệm của các chú.

Chúng tôi càng vô cùng xúc động. Nước mắt tôi chảy oà khi nghĩ đến sự quan tâm chi li sâu sắc của một vị lãnh tụ trong đêm đầu thu này đã thương yêu chúng tôi như con cháu của Bác. Tôi đứng dậy, nói không nên lời:

- Thưa bác, chúng cháu xin vâng lời Bác.

Và tất cả các bạn cùng đứng dậy, reo to lên:

- Xin vâng lời Bác.

Bác vui sướng, mỉm cười. Mà thấy như Bác đang đưa tay lên lau nước mắt. Xúc động ngập tràn, Bác bước ra, vẫy tay chào tất cả chúng tôi. Im lặng, dõi theo chân Bác, dưới trời sao hôm ấy, mọi người như được tiếp thêm sức mạnh.

Lần thứ hai. Đó là vào dịp Đại Hội Văn nghệ toàn quốc lần thứ 3 vào tháng 5 năm 1962. Lúc ấy, tôi là chuyên viên Vụ Văn nghệ Ban Tuyên huấn Trung ương Đảng được đến dự để theo dõi Đại hội này.

Thật là một Đại hội lịch sử, lớn lao, sau cuộc Đại hội Văn nghệ toàn quốc 1948 trong rừng sâu Việt Bắc, thời kháng chiến chống Pháp. Đại hội có 500 đại biểu, đủ mặt các lão làng và anh hào trong các ngành văn học và nghệ thuật Nam Trung Bắc, đủ các vùng miền, các dân tộc. Thấy như có đủ các bác, các anh chị rạng danh tên tuổi đang về đây: Nguyễn Tuân, Nguyễn Công Hoan, Tố Hữu, Nguyễn Đình Thi, Tô Hoài (văn học), Tám Danh, Ba Du, Cả Tam, Trùm Thịnh (sân khấu), Trần Văn Cẩn, Trần Văn Lắm (mỹ thuật), Khánh Dư, Hồ Văn Lái (điện ảnh) và nhiều vị ở nhiều ngành khác; phần lớn nay đã là người thiên cổ.

Bác Hồ đến không được báo trước. Bác cùng với các anh Trường Chinh, Tố Hữu đi từ phía sau Nhà hát lớn Hà Nội đến với Đại hội. Tất cả đứng dậy vỗ tay hồi lâu, râm ran. “Bác Hồ đến, Bác Hồ đây rồi”, mọi người cũng reo lên.

Vẫn rất giản dị với bộ áo quần kaki, lần này có vẻ sáng hơn nhưng đôi chân vẫn đôi dép cao su đen, mắt Bác đảo quanh một vòng từ đầu đến cuối. Bác tươi cười đứng lên trước micro nói với toàn thể đại biểu. Bác khen những cố gắng lớn vừa rồi của văn nghệ sĩ, những tác phẩm tốt mới ra đời. Nhưng Bác cũng đề nghị tất cả phải nỗ lực sáng tạo nhiều hơn nữa để có nhiều tác phẩm xứng với thời đại, với cuộc đấu tranh kiên cường ở miền và công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa miền Bắc. Bác đề nghị với tất cả viết nhiều hơn về người tốt việc tốt. Bác nhắc là muốn có nhiều tác phẩm hay, văn nghệ sĩ phải có cái tâm và cái tài. Bác kể chuyện lúc ấy, những năm 1920, Bác ở Paris (Pháp), để nuôi sống, Bác cũng được mời đi đóng kịch. Bác nói đại ý:

- Đóng kịch ở Pari khó lắm. Người ta giao cho Bác đóng vai một người trẻ tuổi hầu bàn đem cà phê đến cho khách trong một tiệm. Họ nhắc Bác phải đi đứng nhẹ nhàng, ly cà phê phải cầm nhẹ nhàng ra làm sao, đến đưa trước mặt khách trịnh trọng như thế nào để khách vui, bấm ngón tay vào má cậu trẻ và cười thì mới đạt - Bác phải tập nhiều lần và Bác đã đóng đạt vai đó, họ thưởng cho Bác mấy france.

Tất cả Đại hội chăm chú theo dõi, thấy Bác hồn nhiên thân quen như người nhà, nói chuyện rất vui, lắm lúc cùng cười ồ với Bác. Chúng tôi, những anh em văn nghệ sĩ trẻ rất cảm phục về trí thông minh, sự hiểu biết sâu sắc của Bác về giới văn nghệ, cách nói vui tươi, dí dỏm, hay đùa, nhất là cách diễn tả ngắn ngọn, cụ thể, dễ hiểu của Bác.

Chủ tịch Đoàn Đại hội đứng lên đáp từ vô cùng cảm ơn Bác. Tất cả đứng lên, có người chạy lên sân khấu mong được đứng gần, được chụp ảnh với Bác. Bác lẳng lặng, nhẹ nhàng vượt qua. Còn nhớ, chúng tôi cùng với Trà Giang, Chu Thuý Quỳnh chạy theo sau lưng Bác, mong được nói chuyện với Bác. Ra chừng thông cảm, Bác vẫy tay và chào tạm biệt chúng tôi.

Lòng thương của người cha già đối với văn nghệ sĩ, mùa tới chắc sẽ sai hoa kết quả đây. Thật vậy.

Lần thứ ba lại là lần gặp Bác được lâu, nghe Bác nói được nhiều, tôi có nhiều ý nghĩ sâu sắc nhất về Bác.

1966 - 1967. Những năm chiến tranh ác liệt và bao nhiêu chiến công anh hùng của quân dân miền . Những năm tháng chiến đấu dũng cảm của quân dân miền Bắc chống trả lại chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ.

Vẫn là chuyên viên Văn nghệ Ban Tuyên huấn Trung ương Đảng. Những năm đó, tôi có nhiều lần lên công tác ở trọng điểm A1 đường mòn Hồ Chí Minh, nhất là ở Quảng Bình. Được ở lại đó nhiều ngày, được tiếp xúc với nhiều cán bộ và Thanh niên xung phong, tôi về báo cáo lại với đồng chí Tố Hữu, Bác Hồ được biết và hôm ấy, ngày 12/1/1967, đồng chí Tố Hữu, tôi và một số đồng chí ở Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, đưa 4 nữ chiến sĩ thanh niên xung phong Quảng Bình đến thăm Bác.

Cuộc gặp gỡ xúc động và lịch sử biết bao. 7giờ 30 tối, xe đưa chúng tôi đến gần nhà sàn của Bác ở Ba Đình. Bước xuống, đi vào nhà, ngỡ ngàng và vui mừng thay, chúng tôi đã thấy có Bác ngồi trong đó rồi. Năm qua, Bác bị ốm nhiều nhưng Bác vẫn đề nghị với các đồng chí trong Bộ Chính trị để Bác vào Nam để cùng chiến đấu với bà con trong đó. Bác phải nhịn không hút thuốc trong thời gian đó. Mỗi ngày Bác phải tập đi bộ trên con đường dừa, gần nhà Bác ở, vai đeo ba lô có nhiều viên gạch khá nặng. Bác rất quyết tâm nhưng đường xa, gian khổ, Bộ Chính Trị phải can, Bác không vào được.

Nhiều chuyện về Bác, kể cả bệnh nặng của Bác, một số chúng tôi đều biết nên lúc này nhìn Bác hơi gầy, dáng không khoẻ lắm làm chúng tôi buồn buồn. Bác ngồi đó trên một chiếc ghế, ngồi sẵn trước khi chúng tôi vào, chắc là có các đồng chí đưa Bác vào để chúng tôi khỏi lo lắng khi thấy Bác di chuyển. Chúng tôi ồ lên: “Bác! Bác!”. Bác ngồi đó, tuy yếu nhưng dáng vui tươi, mỗi chúng tôi đi qua, Bác đưa tay ra bắt, riêng với các nữ thanh niên xung phong thì Bác trìu mến nhìn kỹ. Bác bắt tay lâu, những bàn tay lắc lắc.

Trên bàn thấy có tấm biển có chữ “khách”. Theo Bác, đây là khách, có khi là khách đặc biệt của Bác. Chúng tôi ngồi gần quanh Bác, chị Nguyễn Thị Huế, quê ở Tuyên Hoá, Quảng Bình, đội trưởng. Năm sau được bầu là Anh hùng và các bạn nữ Thanh niên xung phong khác được Bác cho ưu tiên ngồi gần Bác nhất. Bác đón nhận bó hoa của mấy chị em, vui sướng nở một nụ cười. Một số đồng chí ở Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh đang đứng phía sau tươi cười nhìn lên Bác. Bác ngồi đó, vô cùng giản dị, nét mặt quá đỗi hiền từ, tay để lên bàn, nhưng thấy lần này tóc Bác bạc quá rồi. Bảy mươi bảy tuổi rồi, Bác đang mệt, đang yếu, giữa các cuộc ném bom bắn phá ác liệt ở miền Bắc, ngay cả giữa lòng Hà Nội, thế mà người cha vẫn muốn gặp đàn con thân thương.

Bác lại lướt nhìn trước mắt, hướng tầm nhìn sâu vào các nữ chiến sĩ anh hùng trên đường mòn Hồ Chí Minh nơi mà Bác biết rõ là trọng điểm ác liệt nhất của đường mòn.

Chị Nguyễn Thị Huế bằng giọng rắn chắc cố nói chậm báo cáo Bác nghe rõ công việc của thanh niên xung phong trong đó. Bác lắng nghe, vô cùng chăm chú, đôi mắt luôn nhấp nháy, vầng trán rộng ưu tư, lâu lâu Bác dừng lại hỏi nhẹ đôi điều, chị Huế vẫn tiếp tục thưa chuyện với Bác.

Bác hỏi kỹ các chị về việc phá bom mìn, san lấp hố bom, dựng cờ đỏ cắm lên báo hiệu cho xe qua, ngày và đêm, dưới tầm pháo sáng, có ngày hàng mấy chục hố bom sâu, cái chết đã sẵn sàng nhưng vẫn quyết tâm san lấp cho kỳ được.

Bác Hồ rất chăm chú, quá xúc động, giọng ân cần nhỏ nhẹ hỏi thêm về cách phòng tránh máy bay bom đạn và nhắc nhở các cháu tuy rất dũng cảm nhưng phải luôn luôn đề phòng. Dáng Bác nghĩ ngợi lắm, vầng trán nhiều ưu tư, có lúc lắng thở để nghe được nhiều hơn, nghe lấy từng lời. Bác nhìn kỹ vào các cô gái trước mặt, nói trầm hùng: “- Các cháu anh hùng lắm, vô cùng dũng cảm, quả thật là những Bà Trưng Bà Triệu thời nay”. Nhưng rồi lại đanh thép: “- Các cháu! Không còn cách nào khác hơn, ta phải đánh, kiên quyết đánh, phải làm cho đường mòn thông suốt, ngàn bộ đội, ngàn vũ khí sẽ vào , thắng lợi hoàn toàn sẽ đến”.

Bác còn thân thương hỏi các chị: Trên núi mùa đông rét buốt lắm, các cháu có đủ áo ấm không? Các chị trả lời đã có áo trấn thủ. Bác nhìn lên phía đồng chí Tố Hữu và chúng tôi như nhắc khéo: đó là nhiệm vụ của các chú.

Bác hỏi như người cha:

- Ăn ngày mấy bữa?

- Dạ ba.

- Có no không?

- Dạ no.

- Tắm rửa thế nào?

- Dạ có, đêm khuya phải đến các suối xa, qua ánh pháo sáng xanh vàng của giặc.

- Bác nhắc các cháu dù có khó khăn, vẫn phải gìn giữ vệ sinh.

Có mấy dĩa bánh kẹo ở bàn bên, các chị cần vụ đem tới, Bác tự tay đưa các chị. Nhưng nào có ai ăn được. Tất cả điều hướng về cha già đang ngồi trước mặt, nhìn ngắm người, vui sướng hôm nay và lo lắng cho sức khỏe Bác ngày mai. Bác nói:

- Nếu các cháu không ăn hết thì nên lấy thêm, đem về cho các bạn trong đó, nói đây là quà của Bác. Bác gởi lời thăm tất cả các cán bộ và chiến sĩ trong đó. Nói với tất cả là Bác còn khỏe, cùng với toàn dân chờ ngày thắng lợi hoàn toàn.

Mỗi người chúng tôi, món quà hương vị thấm sâu của Bác trên tay, vô cùng tiếc nuối là cuộc gặp diễn ra quá nhanh. Bác ngồi đó, lại bắt tay từng người, chúng tôi đi qua, giây giây dừng lại, cố dừng lại lâu hơn, cố ngoái cổ nhìn lại, thu hình bóng của Bác vào sâu tâm hồn mình, tưởng như không bao giờ rời được.

Nhưng rồi phải tạm xa Bác, lòng thương Bác vô cùng.

Hôm nay, tạm biệt Bác và hai năm sau trên vườn hoa Ba Đình này, bao nhiêu nước mắt của chúng tôi và của mọi người lại tuôn rơi khi được báo tin Bác Hồ đã vĩnh biệt chúng ta. Sáng ấy, 2 tháng 9 năm 1969, hai năm sau ngày gặp Bác lần thứ ba, sau lễ mít tinh mừng ngày Độc lập ở vườn hoa Ba Đình vắng bóng Bác trên lễ đài, lòng chúng tôi thấp thỏm. Bốn giờ chiều, qua làn sóng rađiô báo tin Bác ốm nặng. Ôi thôi! Và ngày mai, tin buồn da diết làm sao! Bác Hồ đã vĩnh biệt ra đi!

Chúng tôi cùng với đoàn người đông đảo nước mắt tuôn rơi. Có nhiều khách quốc tế lặng lẽ đi qua quan tài, thấy Bác nằm yên, hiền từ làm sao, vẫn bộ ka ki ấy, vẫn đôi dép cao su ấy mà khi đồng chí Chủ tịch Cu Ba Phi đen Castro đến viếng Bác, đã chỉ vào đôi dép ấy nói lên câu nói nổi tiếng: “Đôi dép kia đã đi khắp thế giới”.

Bác ơi! Bác có đi xa đâu, Bác rất gần, Bác trong con, trong cháu, Bác muôn đời, muôn sức mạnh của cháu và của toàn dân, của ba lần gặp Bác và của muôn triệu lần.

L.T.S
(243/05-09)

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • JEAN-CLAUDE GUILLEBAUDLà một nhà báo - nhà văn Pháp thuộc “thế hệ Việt Nam”, thế hệ những người Pháp mà dấu ấn của cuộc chiến Đông Dương đã và sẽ in đậm trong suốt cuộc đời. Ông có mặt ở Việt Nam vào nhiều mốc lịch sử trước 1975, và từ đó ý định trở lại đất nước Việt Nam vẫn luôn thôi thúc ông. Cuốn “Cồn Tiên” được viết sau chuyến đi Việt Nam từ Nam chí Bắc của ông năm 1992. Bản Công-xéc-tô vĩnh biệt này, có thể nói, nó là nỗi ám ảnh của người pháp về Điện Biên Phủ ở Việt Nam. Hiện Guillebaud đang công tác tại Nhà Xuất bản Le Seuil (Paris).

  • PHẠM THỊ ANH NGA15-12-2002Hình như trong đám đông tôi vẫn luôn là một bóng mờ. Một bóng dáng nhạt mờ, lẩn trong vô vàn những bóng dáng nhạt mờ khác, mà giữa trăm nghìn người, ai cũng có thể “nhìn” mà không “thấy”, hoặc có vô tình “thấy” cũng chẳng bận lòng, chẳng lưu giữ chút ấn tượng sâu xa nào trong tâm trí.

  • PHẠM THỊ CÚC                       KýTôi sinh ra ở một làng quê, không những không nhỏ bé, hẻo lánh mà còn được nhiều người biết đến qua câu ca dao "Ai về cầu ngói Thanh Toàn/ Cho em về với một đoàn cho vui".

  • HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNG                                        Bút kýNhiều lần thức giấc trong mùi hương rạo rực của ban đêm, tôi chợt phát hiện ra rằng Huế là một thành phố được dành cho cỏ. Tôi không hề có ý xúc phạm, chỉ muốn lưu ý thêm về vai trò của cỏ trong quy hoạch đô thị. Thật vậy, không nơi nào trên thế giới mà những công trình kiến trúc của con người lại mọc lên giữa cỏ hoang như ở Huế. Đà Lạt cũng được xây dựng trên những ngọn đồi; nhưng ở đấy, hình tượng của cây anh đào và cây thông đã khiến người ta quên mất sự có mặt của cỏ dại.

  • THÁI VŨ        Ghi chépNhững năm đầu kháng chiến chống Pháp, từ Quảng Nam- Đà Nẵng vào Bình Thuận lên Tây Nguyên được chia ra làm 3 Quân khu thuộc Uỷ ban Kháng chiến miền Nam Việt Nam, cụ Cố vấn Phạm Văn Đồng là đại diện của Trung ương Đảng và Chính phủ. Qua năm 1947, 3 Quân khu (QK 5, 6 và Tây Nguyên) hợp nhất thành Liên khu (LK) 5.

  • PHƯƠNG HÀ                     (truyện ký)Cho anh em trong phân đội trở về các vị trí giấu quân xong thì trời cũng vừa sáng. Đang giăng võng để ngủ lấy sức sau một đêm trinh sát, tôi chợt nhớ phải đến thăm Hoà vì Hoà sắp đến ngày sinh nở. Chúng tôi đang ở ngay làng của mình nhưng làng không còn nhà, dân bị giặc lùa đi hết, muốn tìm nhau thì phải tìm đến những căn hầm.

  • PHẠM THỊ CÚC                         Ký…Tôi chưa thấy ai hay ở xứ nào làm các tác phẩm mỹ thuật từ cây với dây... Nếu gọi là tranh thì là một loại tranh ngoài trời, lấy tạo hoá, thiên nhiên làm cốt, không giới hạn, dãi nắng, dầm mưa, đu đưa theo chiều gió, màu sắc cũng thay đổi từng giờ, từng phút, tuỳ theo ánh sáng mặt trời hay mặt trăng. Cho nên, tác phẩm rất linh động…

  • LÊ VĨNH THÁI                Ghi chép Sau chặng đường dài gần 20 km vượt qua các con dốc cao ngoằn ngoèo, hiểm trở, tôi đã đến “hành lang” công trình hồ Tả Trạch, nằm giữa vùng rừng núi bạt ngàn thuộc xã Dương Hoà, huyện Hương Thuỷ. Công trình hồ Tả Trạch được khởi công xây dựng ngày 26/11/2005, là công trình trọng điểm của Thừa Thiên Huế và của cả nước, được Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn quản lý đầu tư từ nguồn vốn trái phiếu của Chính phủ, với tổng mức đầu tư khổng lồ 2659 tỷ đồng. Đây là một trong những công trình lớn của vùng Đông Nam Á.

  • TRƯƠNG ĐÌNH MINH                                 Ký Đợt này trở lại Trường Sơn, tìm hiểu thêm các tấm bê tông xi măng vắt qua đỉnh Trường Sơn, lượn quanh các đèo U Bò, Cù Đăng, A Dớt - A Tép mưa mù phủ trắng... Có đỉnh như đỉnh Sa Mù cao trên 1400m mà đợt tháng 3/2003 vừa rồi chúng tôi đã có mặt. Song do mưa liên miên, xe vận chuyển vật liệu, vật tư đi lại co kéo quá nhiều, đường lầy lội. Các đơn vị thi công chưa hoàn thiện phần nền...

  • DƯƠNG PHƯỚC THU                              Bút kýNhiều năm rồi tôi vẫn nghe, đồng chí đồng đội, nhân dân Dương Hoà và những người từng ở hoặc đã qua lại nơi đây trước chiến tranh, khẳng định rằng: Sau khi hy sinh, thi hài liệt sĩ Ngô Hà được đơn vị tổ chức an táng tại sườn tây núi Kệ, nơi có khe suối Ngân Hàng chảy qua thuộc vùng chiến khu Dương Hoà. Trước ngày giải phóng miền Nam, mỗi lần ngang qua chỗ ông nằm mọi người lại tự ý đắp thêm một viên đá nhỏ, để cho ngôi mộ ấy sớm trở thành hòn núi như mới mọc lên từ đất, ghi dấu chỗ ông yên nghỉ ... Chờ ngày chiến thắng.

  • ĐỖ KIM CUÔNGNăm cuối cùng của bậc học phổ thông, tôi được học 2 tiết văn giới thiệu về "Dòng văn học lãng mạn Việt Nam 1930 - 1945". Cũng không có tác phẩm thơ hoặc văn xuôi được tuyển chọn để phân tích, bình giảng như bây giờ. Ngày ấy - những năm chống Mỹ cứu nước, thơ văn lãng mạn được xem là điều cấm kỵ.

  • TRƯỜNG ANChúng ta đang sống giữa những ngày rực lửa truyền thống hào hùng của Tháng Năm trong lịch sử cách mạng Việt và thế giới. Trước hết, hãy nhắc đến một sự kiện lớn của giai cấp công nhân quốc tế. Ngày 1.5.1886, do yêu cầu không được đáp ứng một cách đầy đủ, công nhân trên toàn nước Mỹ đã tham gia bãi công nhằm gây áp lực buộc giới chủ thực hiện yêu sách của mình. Đầu tiên là cuộc bãi công tại thành phố Chicago với biểu ngữ “Từ hôm nay không người thợ nào làm việc quá 8 giờ một ngày! Phải thực hiện 8 giờ làm việc, 8 giờ nghỉ ngơi, 8 giờ vui chơi!”.

  • PHẠM THỊ ANH NGA       Gởi hương hồn bạn cũTôi qua đến Pháp ngày hôm trước thì hôm sau ba tôi mất. Cái tin khủng khiếp đó đối với tôi vẫn không đột ngột chút nào, bởi từ những ngày hè về thăm nhà, tôi đã biết trước ba tôi sẽ sớm ra đi.

  • TÔ VĨNH HÀEm hẹn gặp tôi ở quán cà phê Trung Nguyên. Đó là địa điểm em tự chọn. Cái tên ấy cho tôi biết rõ là giữa hai chúng tôi không có gì nhiều hơn một cuộc trao đổi bình thường. Tuy nhiên, sự mách bảo từ nơi nào đó của linh cảm và cả ước muốn, cứ làm cho tôi tin rằng đó là điểm khởi đầu. Đêm cuối xuân, Huế gần như ít buồn hơn bởi cái se lạnh của đất trời. Huế bao giờ cũng giống như một cô gái đang yêu, đẹp đến bồn chồn. Nếu được phép có một lời khuyên thì chắc hẳn tôi đã nói với tất cả những người sẽ được gần nhau rằng, họ hãy cố chờ đến một đêm như thế này để đến bên nhau. Bầu trời mà Thượng đế đã tạo ra sẽ cho mỗi con người biết cách đến gần hơn với những lứa đôi.

  • CAO SƠNChuyện xưa: Vua Hùng kén tìm phò mã cho công chúa Ngọc Hoa, đồ lễ vật phải có gà chín cựa ngựa chín hồng mao? Thôi thúc Lạc dân xưa kia, đánh thức tiềm năng người dân phải tìm hiểu, lặn lội từ đời này sang đời kia chưa thấy. May sao với thú đi để biết, anh Trần Đăng Lâu, cựu chiến binh, hiện Giám đốc vườn quốc gia Xuân Sơn tỉnh Phú Thọ cho hay: Vườn quốc gia nguyên sinh anh Lâu đang quản lý, mới phát hiện giống gà lạ ấy. Con vật đặc biệt chưa có ai biết tới, chưa được phổ biến rộng rãi, thương trường chưa có cuộc trao bán...

  • NGUYỄN HỮU THÔNG                             Bút ký"Buổi mai ăn một bụng cơm cho noChạy ra bến đòMua chín cái tráchBắc quách lên lò

  • TRẦN NGUYỄN KHÁNH PHONG                                                Bút kýTrong hồi ức của một số cán bộ lão thành cách mạng ở A Lưới kể lại rằng: “Hồi đó có một số người ở đồng bằng tản cư lên sống cùng đồng bào; qua họ, đồng bào nghe đến tên Cụ Hồ, nhưng đồng bào chỉ biết đầy đủ về Bác cũng như thấu hiểu được những điều Bác dạy qua các cán bộ người Kinh lên hoạt động ở đây vào khoảng những năm 1945-1946. Cán bộ bảo: Cụ Hồ muốn nhân dân mình học lấy cái chữ để biết bình đẳng. Muốn bình đẳng còn phải đánh Pháp. Nếu đoàn kết đánh Pháp thì ai ai cũng đánh Pháp và khi đó đồng bào ta nhất định thắng lợi” (1)

  • PHAN TÂM        (Kỷ niệm 240 năm sinh thi hào Nguyễn Du 1765-2005)Tháng Hai 1994:Từ Vinh qua cầu Bến Thủy, rẽ trái độ mười cây nữa, đến xã Xuân Tiên (Tiên Điền), huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh.Khu đất cao ráo ở ngay đầu xã, bên bờ sông Lam, cạnh bến Giang Đình, là khu nhà cũ, khu lưu niệm Nguyễn Du.

  • LTS: Phát hành tới hàng trăm ngàn bản, Nhật ký Đặng Thuỳ Trâm là cuốn sách duy nhất (có thể nói như vậy) gây được xúc động cho các thế hệ độc giả trong và sau chiến tranh, cho cả hai phía xâm lược và chống xâm lược nhờ tính chân thực của nó.Sông Hương trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc một số trang trong cuốn Nhật ký Đặng Thuỳ Trâm và hai bài viết liên quan đến cuốn sách

  • NGUYỄN QUANG HÀ                        Truyện kýHoà thượng Thích Đôn Hậu gọi đại đức Thích Trí Diệm lên phòng riêng:- Ta đang mắc công chuyện không thể xa Huế được trong thời gian này, nên ta cử thầy vào chùa Hải Đức, Nha Trang tham gia cuộc thuyết pháp quan trọng tại đó. Thầy đi được chớ?Đại đức Thích Trí Diệm cúi đầu thưa:- Dạ, được ạ.