Ánh sáng phía sau dòng lệ

15:02 29/10/2019

Tôi đọc nhiều bài thơ trong tập thơ “Biên bản thặng dư” (NXB Hội Nhà Văn 9/2019) đầy ấn tượng của nhà thơ Phùng Hiệu. Chủ lưu trong mạch trữ tình của anh là ánh nhìn tinh khôi về tình yêu, tình đời.

Bìa cuốn “Biên bản thặng dư” của nhà thơ Phùng Hiệu.

Tín hiệu thẩm mỹ trong ngôn ngữ Phùng Hiệu hướng về những chân trời trong ngần; Một “cấu trúc vẫy gọi” cho ta đi tới và trở về với tâm tư. Ở đó, thơ đã định vị cho người đọc một cảm thức mới. Với Phùng Hiệu - đó là tuổi thơ của loài người buổi sơ mộng, và mai hậu trong đời sống này.

Biên bản thặng dư” khiến người đọc khá bất ngờ bởi ngôn phong cũng như lối tư duy trong tập này của anh rất khác biệt. Như những ánh đèn cao áp có công suất mạnh mẽ, soi chiếu trực diện vào mặt trái của cuộc sống, của những bà mẹ, người lao động, những đứa trẻ bán vé số.

Họ, là những bản thể mong manh, quạnh quẽ thấp thoáng bên ga đời. Lặng lẽ, cam chịu, nhận về mình muôn nghìn ngọn roi vô hình của cuộc sống quất vào tâm can.

 Nhà thơ Phùng Hiệu.

Phùng Hiệu tìm đến sự giải thiêng cho những sự thật, lật tẩy để thanh tẩy bao ngụy tín trong cuộc sống đang tăng tốc phi mã trong vòng xoáy của vật chất, của những toan tính thực dụng.

Phùng Hiệu suy niệm, đến ngay cả ánh sáng cũng hàm chứa những vi lượng của bóng tối. Đây là mối liên hệ biện chứng mà triết học bao đời đã kiến giải.

Thi ca, với vai trò muôn thuở của mình đã vào cuộc, dấn thân, chứng gian cho những điều này… “Gói sự thật vào giấc mơ. Tôi đi tìm công lý. Tin chắc ở phía chân trời có ánh bình minh. Nhưng khi vừa đến chân trời, tôi chạm phải bóng đêm. Đi sâu vào bóng đêm.

Là cả hành trình lương tri lộ diện…” (Kẽ hở bình minh). Hệt đồng tiền hai mặt, mặt kia là sự nghịch đảo của mặt này. “Sau phía hoàng hôn. Tôi nhận diện được bóng đêm. Ở đấy. Sự thật luôn bị đánh lừa. Sau kẽ hở bình minh”.

Ánh đèn đêm luôn tạo nên những ám ảnh trong thơ Phùng Hiệu. Hay nói cách khác, đó là nơi chực chờ của “cạm bẫy người”. Dưới ánh đèn màu, đã diễn ra bao cuộc đánh đổi, ngã giá của tuổi trẻ đi hoang, trong mê lộ đầy ảo ảnh, ảo vọng.

“Sau đêm. Những bước chân hoang lần về công sở. Em giật mình tỉnh giấc. Rã rời trong hạnh phúc thuê bao.

Đến một ngày em nhận ra em. Thì giấc mơ đã tan về chốn cũ. Một đêm vắng trên màn hình ế ẩm. Gọi em về sa thải một cơn mơ" - (Sa thải một cơn mơ).

Những “cung đường ngã giá về đêm” đã thành lối vào vô vọng, bất định. Tuổi thanh xuân tàn phai theo hiu hắt ánh khuya đêm…

Niềm vui hay nỗi đau, cũng chỉ là âm bản và dương bản nặng trĩu ưu tư trong từng câu thơ, như giọt lệ hân hoan trong thơ Phùng Hiệu. Là dấu gạch nối, liên tiến của cảm thức thi nhân với nỗi đau của nhân thế.

Như minh triết của Phật giáo: “Ta cũng là tha nhân”. Bài thơ “Với mẹ” là sự rung cảm mạnh mẽ của nhà thơ trước em bé thương tật, phải tự đỡ mình bằng cây gậy băng ngang đường đời, để mà tồn tại.

“Này mẹ hỡi, hãy thương giùm đôi gậy. Như thương con từ thuở mới chào đời. Vì chiếc gậy bên đời con như mẹ. Cũng thương con như thể mẹ thương người. Ngày cha đi biền biệt ở chiến trường. Mẹ đứng dậy khói hương từng thập kỉ. Con lớn dần qua đôi gậy da cam”.

Những câu thơ, cấu tứ bài thơ run rẩy niềm cảm thông trước nỗi thống khổ vĩ đại đó. Xô lệch mọi cấu trúc ngữ pháp, nhà thơ chìa bàn tay để hồi sinh, làm ấm lại những vòng tay…

Nước mắt có lẽ sẽ trở nên lộng lẫy, thanh lọc hồn ta hơn khi tiếng lòng cùng hòa điệu. “Ôi! Những tờ vé số chứng minh số phận. Tôi đau thương cầm mấy mươi nghìn. Không thể nào dịu nỗi đau. Cho em bé đến trường. Bằng tiếng rao vé số”. (Đằng sau tờ vé số)

“Biên bản thặng dư” của Phùng Hiệu là tập hợp những ký họa và tốc ký bằng ngôn ngữ thi ca. Thơ anh dung dị, không dụng công nhiều các phép tu từ của văn chương mà trực diện đi vào cuộc đời để soi chiếu, mổ xẻ tận cùng của những góc tăm tối nhất của bao thân phận. Thắp sáng vào đêm, xua tan mọi tăm tối, xanh lại những cỗi cằn. Và đề cao nhân vị, để những đời cần lao tỉnh thức, tìm cho mình một nẻo về đầy ý nghĩa phía tương lai.

Thơ, giờ đây đang dìu nhân thế trở về với “bản lai diện mục” của mình. Từng giọt lệ hân hoan đã khơi. Bao nỗi vơi phai. Người thơ bắc một nhịp cầu tri âm để vui lại đôi bờ thương nhớ.

Trên cánh đồng chữ, mùa tâm tư đã trổ bông vào hội yêu thương…

“Những con chữ nhảy múa trên cánh đồng tài nguyên ngôn ngữ. Cho cảm xúc tuôn, cho lãng mạn trào. Mơ về em. Ta mới biết cuộc đời còn có tình yêu…”. (Nhấp phím).

Theo Bảo Trung - GD&TĐ

 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • Giải thưởng văn học Sông Mekong lần thứ 11 sẽ diễn ra tại thủ đô Phnompenh, Campuchia vào cuối năm 2020. Hai tác giả Việt Nam đoạt Giải thưởng năm nay là tác giả Trần Nhuận Minh với tác phẩm sách thơ Qua sóng Trường Giang và tác giả Trần Ngọc Phú với tác phẩm Từ Biên giới Tây Nam đến đất Chùa Tháp.

  • Trong dịp kỷ niệm 100 năm Ngày sinh nhà thơ Tố Hữu (4-10-1920 - 4-10-2020), NXB Hội Nhà văn cho ra mắt bạn đọc tập sách dày dặn, công phu và nghĩa tình Tố Hữu - Một đường thơ, một đường đời.

  • Nhà thơ Vũ Quần Phương cho rằng, người cuối cùng của phong trào Thơ mới vừa từ giã bạn đọc ở tuổi 100 – thi sĩ Nguyễn Xuân Sanh - là người “không để thơ… ngủ quên trên thành công của dòng lãng mạn trước đó”.

  • Đoàn Ngọc Thu nói rằng chị thích thơ của mình ngày xưa hơn. Những xúc cảm ấy vẫn như còn váng vất trong những vần thơ trong tập “Sau bão” (NXB Hội Nhà văn, 2020).

  • Ra đời cách đây 25 năm, bộ truyện “Kính Vạn Hoa” của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh có ý nghĩa đặc biệt, khơi luồng gió mới cho văn học thiếu nhi Việt Nam thời kỳ đổi mới, mang đến món ăn tinh thần lý thú bổ ích. Tuy nhiên, quá trình thực hiện bộ sách cũng thử thách những người chọn lựa bước trên con đường dài sáng tạo không ngừng nghỉ.

  • Nhà thơ Nguyễn Xuân Sanh sinh năm 1920 tại Ðà Lạt, nguyên quán Quảng Bình, lúc nhỏ theo học ở Trường Quốc học Quy Nhơn (cũ), sau đó chuyển ra Hà Nội.

  • Sáng 22/11/2020, Nhà thơ Trần Đăng Khoa đã thông báo chia sẻ tin buồn cho các nhà thơ và những người yêu thơ đó là nhà thơ tiền bối nổi tiếng Nguyễn Xuân Sanh vừa qua đời.

  • NXB Văn học giới thiệu “Nghề vương bụi phấn”, tác phẩm thứ ba của tác giả Nguyễn Huy Du, gồm những câu chuyện về tình thầy trò với văn phong mộc mạc, giản dị nhưng lôi cuốn, nhân Ngày Nhà giáo Việt Nam 20-11.

  • Nhà thơ Nguyễn Xuân Sanh sinh ngày 16 tháng 11 năm 1920, quê gốc thuộc huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình. Ông cũng là một trong những hội viên tiền phong tham gia xây dựng Hội Nhà văn Việt Nam. Năm nay ông tròn 100 tuổi. Hội Nhà văn Việt Nam vừa tổ chức chúc thọ nhà thơ Nguyễn Xuân Sanh tại trụ sở số 9, Nguyễn Đình Chiểu hôm 9/11/2020 với sự tham gia của lãnh đạo Hội, các nhà văn nhà thơ và đại diện gia đình của ông.

  • “Nẻo vào văn xuôi đương đại Việt Nam” là tập tiểu luận - phê bình của TS Bùi Như Hải, do NXB Văn học ấn hành tháng 9-2020.

  • Sáng 5-11, Viện Văn học Việt Nam đã tổ chức toạ đàm nhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh PGS – nhà nghiên cứu văn học Vũ Đức Phúc. Đây là một dịp để các thế hệ Viện Văn học ngồi lại cùng ôn cố và “soi chiếu cho tương lai” – như lời PGS,TS Nguyễn Đăng Điệp, Viện trưởng Viện Văn học nhận định.

  • Bằng sự lao động miệt mài và nghiêm túc, nhà văn Lê Văn Nghĩa thường gửi đến độc giả những đầu sách độc đáo, nhiều cuốn trong số đó có giá trị như một “bảo tàng ký ức” của không chỉ riêng tác giả.

  • Thạch Lam (1910 - 1942) là đại biểu xuất sắc của văn xuôi lãng mạn Việt Nam thời kì 1930 - 1945. Văn Thạch Lam đọng nhiều suy nghiệm, nó là cái kết tinh của một tâm hồn nhạy cảm và từng trải về sự đời (Nguyễn Tuân).

  • Sáng ngày 20/10/2020, Hội Nhà văn Việt Nam đã tổ chức kỉ niệm 100 năm ngày sinh nhà thơ Tố Hữu (4/10/1920 – 4/10/2020).

  • Đã có nhiều nhà văn viết về Hà Nội - Thủ đô yêu dấu - như Thạch Lam, Vũ Bằng, Tô Hoài, Nguyễn Khải… Nhưng tập truyện ký “Hà Nội và tôi” (NXB Hội Nhà văn) gần 300 trang với hơn 20 tác phẩm của nhà văn Vũ Ngọc Tiến, một người Hà Nội gốc, đã cho ta biết thêm một phần chân dung về những con người của đất Tràng An thanh lịch.

  • Tháng 10, nhân kỷ niệm 66 năm ngày Giải phóng Thủ đô, Nhã Nam giới thiệu tới bạn đọc một tác phẩm mới của nhà văn Nguyễn Trương Quý, cây viết vốn quen thuộc với những tản văn về các góc nhỏ của Hà Nội: “”Hà Nội bảo thế là thường”.

  • Rất lâu rồi, không có luận văn, luận án nào về thơ Tố Hữu. Cũng lâu lắm rồi, sau Hà Minh Đức, Trần Đình Sử… rất ít người viết về thơ ông. Tôi cũng chưa bao giờ viết về thơ Tố Hữu khi ông còn sống. Nhưng với chúng tôi, thơ Tố Hữu là nguồn suối tươi mát, mạch ngầm sống động trong đời sống tinh thần. "Chúng tôi" ở đây là thế hệ những người ở lứa tuổi 70. Trong quãng thời gian 70 năm của một đời người thì ít nhất có 30 năm (1954 - 1975) chúng tôi đã được sống với thơ Tố Hữu.

  • Bằng kiến thức của một chuyên gia đầu ngành và sự trân trọng quá khứ một đi không trở lại, ông đã chỉ ra giá trị của cuốn sách và ý nghĩa của việc làm sống lại những kí ức Hà Nội rất đặc biệt thông qua cuốn sách này...

  • Có một bộ phim tôi không thực nhớ nội dung, một bộ phim của Woody Allen mang tên "Đóa hồng tím ở Cairo", câu chuyện mang máng mà tôi còn nhớ, đó là một người phụ nữ thất bại trong tất cả mọi khía cạnh cuộc đời, rồi cô vào một rạp chiếu bóng, xem một bộ phim, và trong giây phút ấy, cô quên béng mất cuộc đời mình, cô òa khóc, không phải vì mình, mà vì những nhân vật trong phim.

  • Năm 1941, với việc xuất bản Dế mèn phiêu lưu ký ở tuổi 20 (bản in đầu tiên có nhan đề Con dế mèn), Tô Hoài có được hai vinh dự lớn trong nghề cầm bút: Trở thành người mở đầu thể loại truyện đồng thoại; Tác phẩm mở đầu lại là đỉnh cao của thể loại, đồng thời là một trong những áng văn học thiếu nhi nổi tiếng thế giới nhất của Việt Nam.