Ảnh hưởng của thơ Đường đối với thơ mới

10:25 28/10/2009
TRẦN VĂN TOÀN - NGUYỄN XUÂN DIÊN1. Ảnh hưởng của Thơ Đường đối với Thơ Mới là một vấn đề từ lâu đã được đề cập tới. Ngay từ năm 1942, Hoài Thanh- Hoài Chân trong Thi nhân Việt Nam mặc dù giành nhiều trang để miêu tả ảnh hưởng của thơ Pháp (đặc biệt là trường phái Tượng trưng) nhưng các ông đã trân trọng và có một chút hứng thú đặc biệt về ảnh hưởng của Thơ Đường đối với Thơ Mới (điều này được bộc lộ qua công phu miêu tả, khảo cứu và cụ thể hơn từ chính số lượng trang viết). Khi phân chia các dòng mạch Thơ Mới, Hoài Thanh- Hoài Chân nói tới dòng mạch chịu ảnh hưởng của thơ Pháp, dòng mạch mang tính cách Việt, đồng thời cũng nói tới dòng mạch chịu ảnh hưởng từ Đường thi.

(Ảnh: vuonghaida.com)

Tiếp sau Thi nhân Việt Nam, những tác động của Thơ Đường đối với Thơ Mới cũng là đối tượng được nghiên cứu trong một loạt những chuyên luận, những bài viết của Phan Cự Đệ, Hà Minh Đức, Trần Đình Sử, Phương Lựu... Nhiều cứ liệu cũng như những vấn đề lý luận đã được bổ sung và tổng kết. Xung quanh vấn đề này, ý kiến của các nhà nghiên cứu là khá thống nhất. Ai cũng nhận thấy chất liệu Đường thi đã khảm sâu và đã trở thành một bộ phận hữu cơ trong chỉnh thể của thế giới nghệ thuật Thơ Mới. Tuy vậy, một sự khảo cứu toàn diện và công phu về ảnh hưởng của Thơ Đường đối với Thơ Mới nhìn chung vẫn là một công việc trong tương lai. Bài viết này của chúng tôi, do thế, là một cố gắng nhằm thu hẹp dần cái khoảng cách cần được vượt qua này.

2. Trong bài này, để mô tả ảnh hưởng của Đường thi đối với Thơ Mới chúng tôi dựa vào bố cục của một bài thơ bao gồm các phần nhan đề, đề từ, tên tác giả, khổ thơ, câu thơ (cú pháp, từ ngữ, hình ảnh). Trên cơ sở khảo sát các tác phẩm trong:

1. Thi nhân Việt Nam. Hoài Thanh- Hoài Chân.
2. Mấy vần Thơ. Thế Lữ
3. Tuyển tập Xuân Diệu. Tập 1
4. Tuyển tập Huy Cận
5. Tuyển tập Lưu Trọng Lư
6. Tuyển tập Nguyễn Bính
7. Mùa cổ điển.
Quách Tấn
8. Điêu tàn. Chế Lan Viên
9. Tác phẩm chọn lọc. Hồ Dzếnh.
10. Thơ say. Vũ Hoàng Chương.
11. Thơ văn Hàn Mặc Tử.

Chúng tôi tiến hành phân loại và bước đầu đưa ra một số kết luận về mức độ, phạm vi cũng như cơ chế ảnh hưởng của Thơ Đường vào Thơ Mới (1). Kết quả khảo sát cụ thể như sau:

2.1.
Có những trường hợp mà nhan đề bài thơ hoàn toàn trùng khớp với nhan đề một bài thơ khá nổi tiếng trong Đường thi (Trường tương tư của Hàn Mặc Tử và Trường tương tư của Bạch Cư Dị), hai bài Đá vọng phu và Đêm thu nghe quạ kêu của Quách Tấn dường như chỉ là dịch từ Hán sang Việt hai bài thơ Vọng phu thạch của Vương Kiến và Ô dạ đề của Lý Bạch). Các bài thơ sau cũng của Quách Tấn trong Mùa cổ điển: Cảm thu, Về thăm nhà cảm tác, Một đêm mưa mùa thu, Đêm thu, Đêm xuân đều là những thi đề rất quen thuộc trong Đường thi. Tổng cọng là 8 trường hợp.

Ngoài ra, bài Tư hương của Hồ Dzếnh có lời đề từ “Phương thảo thê thê Anh Vũ châu” rút từ Hoàng Hạc lâu của Thôi Hiệu. Bài Trông chồng của Thái Can đề từ bằng cả bài Khuê oán của Vương Xương Linh. Phan Thanh Phước viết lời đề từ cho bài Đêm Tần của mình là “ tặng Vương Xương Linh”. Độc đáo nhất là Huy Nhiệm thường ký tên là Đỗ Phủ, Thiếu Lăng.

Nhan đề, lời đề từ của một bài thơ thường ngưng kết trong nó cảm hứng, chủ đề của toàn bài. Tuy nhiên, không phải tất cả trong số những tác phẩm đã kể trên đều có sự gặp gỡ về nguồn mạch cảm hứng với những tác phẩm Đường thi trong quá khứ (Bài Trường tương tư của Hàn Mặc Tử là một ví dụ tiêu biểu). Dầu thế, với những trùng hợp của những lời đề từ, cách lấy bút danh... như trên cho thấy các nhà Thơ Mới khi cầm bút vẫn thấy mình gắn bó với hồn Đường, với những hình bóng của các tác giả Đường thi. Họ cảm thấy đồng điệu, cảm thấy có thể trò chuyện với những tứ thơ, những gương mặt của thế giới Đường thi. Tâm thế sáng tác này của các nhà Thơ Mới gợi nhớ đến tâm thế của Nguyễn Khuyến trong Thu vịnh:

            Nhân hứng cũng vừa toan cất bút,
            Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào.

Nếu cần phải dè dặt thì vẫn có thể nhận thấy: một sự gắn bó trực tiếp như trên của các nhà Thơ Mới với quá khứ Đường thi là một hiện tượng rất khó bắt gặp ở các nhà thơ từ sau 1945 trở đi. Phải chăng, ở đây tâm thế sáng tác của các nhà Thơ Mới (nếu không phải là tất cả thì chí ít cũng là một bộ phận) vẫn chưa hoàn toàn thuộc về phạm trù hiện đại?

2.2. Đơn vị trên câu cơ bản của Đường thi là liên. “ hai dòng thơ số lẻ và số chẵn đi liền nhau” (2) Do chỗ: “ Trong mỗi liên giữa câu thơ số lẻ và số chẵn có quan hệ với nhau về nhiều mặt. Ngay cả ở những liên không phải đối về mặt ý nghĩa và cú pháp thì ít nhất cũng phải có sự đối thanh và những quan hệ khác về mặt ý nghĩa và cú pháp” (3) cho nên liên là một kết cấu chặt với những ràng buộc, qui tắc ngặt nghèo. Sự thâm nhập trọn vẹn của một liên vào trong Thơ Mới là rất hãn hữu. Chúng tôi chỉ tìm thấy bóng dáng của ảnh hưởng này qua 3 trường hợp. Trong đó, hợp thức hơn cả là hai câu trong bài Mai rụng của J. Leiba:

            Tơi bời ong bướm bay qua ngõ
            Những tưởng màu xuân ở xóm ngoài.

Có thể xem đây là hai câu thơ trực dịch khá sát với hai câu thơ của Vương Giá trong bài Xuân tình:
            Phong điệp phân phân quá tường khứ
            Khước nghi xuân sắc tại lân gia.

Hai trường hợp khác, một của Quách Tấn, một của Vân Đài đều ít nhiều có sự biến đổi của ý và lời. Chúng tôi sẽ thử lý giải hiện tượng này (dựa trên sự phối kết hợp với một số hiện tượng khác) trong phần trình bày những ảnh hưởng của Đường thi vào Thơ Mới ở cấp độ câu thơ.

2.3.
a. Nổi lên vị trí hàng đầu ở cấp độ câu thơ là vần đề cú pháp. Đặc điểm cú pháp nổi bật của Thơ Đường, như nhiều nhà nghiên cứu đã chỉ ra, là phép tỉnh lược (tỉnh lược chủ từ, giới từ, động từ, các từ so sánh...). Đặc điểm này khiến cho các cụm từ trong câu thơ có quan hệ lỏng lẻo về mặt ngữ pháp, và do thế, chúng có thể kết hợp với nhau theo nhiều cách. Tùy theo mỗi cách kết hợp mà có thể có một cách cắt nghĩa cho lời thơ, đây chính là một nguyên nhân quan trọng đem lại tính đa nghĩa cho câu thơ. Khi phân tích câu thơ: Cô chu nhất hệ cố viên tâm trong Thu hứng (bài 1) của Đỗ Phủ, N. Kôn- rat đưa ra các cách hiểu khác nhau:

- Thứ nhất: “ nhà thơ buộc chặt con thuyền và chuẩn bị: có thể biết đâu lại không có khả năng lên đường (tìm về cố viên). Ông làm như thế bởi vì trong tâm khảm ông luôn luôn nghĩ về cố hương”.

- Thứ hai: “ với hình tượng con thuyền buộc chặt nhà thơ muốn nói: dầu thân ông bị trói buộc ở nơi đây nhưng tâm hồn ông thì đã đi xa (tìm về với cố hương).

- Thứ ba: “ con thuyền của nhà thơ buộc chặt vào bờ, trái tim luôn hướng về cố viên của ông cũng bị buộc chặt như thế” (3).

Theo N. Kôn- rat: “ Còn có nhiều cách giải thích khác”. Nguyên nhân của tình trạng này là do “không tìm được liên hệ trong kết cấu ngữ pháp của câu thơ” (4). Giữa hai cụm từ “ cô chu nhất hệ” và “ cố viên tâm” không có một yếu tố ngữ pháp nào giữ vai trò kết dính. Đối với những câu thơ như thế này, việc chuyển dịch sang một ngôn ngữ khác sẽ có rất nhiều điều bất cập.

Qua khảo sát chúng tôi tìm thấy cách tổ chức cú pháp trên của Đường thi xuất hiện ở Quách Tấn 9 lần, Vũ Hoàng Chương 9 lần, Huy Cận 5 lần. Ngoài ra, ở các nhà thơ khác hiện tượng này xuất hiện với tần số rất thấp. Một hồn thơ có nhiều duyên nợ với Đường thi như Hàn Mặc Tử cũng chỉ thấp thoáng với những câu thơ như:

            Mở cửa nhìn trăng, trăng tái mặt
            Khép phòng đốt nến, nến rơi châu
hoặc:
            Bóng nguyệt leo song sờ sẫm gối
            Gió thu lọt cửa cọ mài chăn.

Hai trường hợp này đều đã được Thụy Khê nêu ra và cắt nghĩa trong bài viết của mình (5). Chúng tôi dựa vào cuốn Thơ văn Hàn Mặc Tử (6) để khảo sát nhưng chưa tìm thấy thêm một trường hợp nào có đặc điểm tương tự. Xét từ phía tâm lý đón nhận của người đọc đối với Thơ Mới, hiện tượng câu thơ mang cấu trúc cú pháp Đường thi dường như khá lạ lẫm. Ở hai câu thơ sau trong Tống biệt hành của Thâm Tâm:
            Bóng chiều không thắm không vàng vọt
            Sao đầy hoàng hôn trong mắt trong

Phép tỉnh lược đã gây nên độ “ nhòe” trong việc xác định chủ thể của hiện tượng “ hoàng hôn trong mắt trong” và lập tức đã gây nên những tranh cãi, những cách hiểu rất khác nhau.
Nhân đây chúng tôi cũng xin lưu ý hiện tượng tỉnh lược trong thơ Nguyễn Bính, ở những câu thơ như:

            Mười năm gối hận bên giường
            Mười năm nước mắt bữa thường thay canh
            Mười năm đưa đám một mình
            Đào sâu chôn chặt mối tình đầu tiên
            Mười năm lòng lạnh như tiền
            Tim đi hết máu cái duyên không về

thì mặc dù có sự tỉnh lược chủ từ, nhưng sự tỉnh lược này không gây nên sự đục mờ về cấu trúc ngữ pháp, nó không đem lại khả năng kết hợp rộng rãi của các yếu tố trong câu thơ. Theo chúng tôi, sự tỉnh lược trong câu thơ Nguyễn Bính có nguồn gốc từ ca dao, theo kiểu:
            Chiều chiều ra đứng ngõ sau
            Trông về quê mẹ ruột đau chín chiều
chứ không phải là sự tỉnh lược trong Thơ Đường.

b. Ở cấp độ câu thơ, dấu vết của Đường thi để lại đậm nét hơn cả là hệ thống từ ngữ hình ảnh. Qua khảo sát sơ bộ, chúng tôi tìm thấy 95 trường hợp. Con số cụ thể ở những tác giả chính là như sau: Hàn Mặc Tử- 5 lần, Thế Lữ- 6 lần, Lưu Trọng Lư- 5 lần, Quách Tấn- 21 lần, Xuân Diệu- 6 lần, Vũ Hoàng Chương- 17 lần, Nguyễn Bính- 5 lần, J. Leiba- 5 lần, Thái Can- 4 lần.

Xung quanh vấn đề này có thể bước đầu nêu ra một số những kết luận sau:
Thứ nhất: Trong Thi nhân Việt Nam, Hoài Thanh- Hoài Chân nói đến ba dòng chính là Thơ Mới (mặc dù vẫn thừa nhận có sự thẩm thấu, qua lại ở ba dòng thơ này) đó là: dòng chịu ảnh hưởng phương Tây, dòng chịu ảnh hưởng Thơ Đường, dòng mang tính cách Việt. Tuy nhiên, nhìn vào số liệu thống kê trên thì có thể thấy: quả thật, ở những tác giả tiêu biểu cho dòng Thơ Đường như Quách Tấn chất liệu Đường thi có đậm hơn, nhưng ở những nhà thơ khác ảnh hưởng này vẫn phát huy tác dụng và mức độ ảnh hưởng khá đồng đều. Trong một chừng mực nào đó, có thể xem biểu hiện trên như một mẫu số chung cho các nhà Thơ Mới.

Thứ hai: Các hình ảnh và ngôn từ Đường thi đột nhập một cách rộng rãi vào tất cả mọi thể loại của Thơ Mới. Từ những câu thơ luật Đường của Quách Tấn:

            Gầy úa rừng sương đeo giọt sầu
           
(Cảm thu)
đến những câu thơ theo thể 7 chữ theo lối mới:
            Có cô dâu mới nhìn sông nước
            Sực nhớ quê nhà giọt lệ tuôn
           
(Điệu huyền - Lưu Trọng Lư)
những câu thơ theo thể 8 chữ:
            Chim so bay, cây cũng chắp liền cành
                                   
(Mơ xưa- Xuân Diệu)
những câu thơ theo thể song thất lục bát truyền thống:
            Chừ đây đêm hãy đầy sương,
            Con thuyền còn buộc trăng suông lạnh lùng.
            Phút giây ấy ta mình ngây ngất
            Bỗng con thuyền buộc chặt rời cây.
            (Giang hồ - Lưu Trọng Lư)
thể 5 chữ:
            Từ ấy anh ra đi,
            Em gầy hơn vóc liễu,
            Em buồn như đám mây,
            Những đêm vầng trăng thiếu.
            (Nhớ nhung- Hàn Mặc Tử)

Mặt khác, những hình ảnh, từ ngữ của Đường thi xuất hiện trong Thơ Mới nói chung là khá thân thuộc với người Việt. Trong quá trình thống kê chúng tôi không gặp phải khó khăn đáng kể trong việc truy tìm nguồn gốc của những từ ngữ hình ảnh này. Những hình “ ngọn nến”, “ con thuyền buộc chặt”,” sầu lau lách”... đều đã từ lâu được nhập vào kho thi liệu dân tộc. Điều đó chứng tỏ những chất liệu Đường thi đã bám rễ rất sâu trong văn học Việt.

Thứ ba: Các ngôn từ và hình ảnh Đường thi tồn tại và hành chức trong thơ như những điển tích, điển cố tức là có giá trị khiến cho lời thơ trở nên hàm súc, “ ý tại ngôn ngoại”. Điều này thể hiện rõ nhất ở trường hợp chất liệu Đường thi là những địa danh (hiện tượng này xuất hiện 13 lần trên tổng số 95) với những câu thơ sau của Vũ Hoàng Chương:

            Lòng ngát tràng giang, mộng bể hồ
            Sầu ai chuông lẻn giấc Cô Tô
            (Hờn thặng phấn)
            - Niềm giang hồ tan tác lệ Dương Châu
             (Dâng tình)
Hoặc Quách Tấn:
            Trời bến Phong Kiều sương thấp thoáng
            (Đêm thu nghe quạ kêu)

Nếu không hiểu các địa danh trên được rút ra từ Phong Kiều dạ bạc (Trương Kế) và Tỳ bà hành (Bạch Cư Dị)... thì sẽ rất khó lĩnh hội được sự hàm súc của lời thơ.

Trong các trường hợp khác, thi không phải là các địa danh do sự vận dụng quá nhuần nhuyễn hình ảnh ngôn từ Đường thi nên tính chất điển tích, điển cố của chúng có phần mờ nhạt hơn, vẫn có thể cảm nhận được cái bâng khuâng, lưu luyến của cảnh tiễn biệt trong Tống biệt hành mà không cần biết đến những “ hoàng hôn”, “ bến sông” tràn ngập trong Đường thi. Tuy nhiên, chỉ khi người đọc đặt các hình ảnh trên vào trong mạch của những Dịch Thủy tống biệt (Lạc Tân Vương), Thu giang tống biệt (Bạch Cư Dị), Tống khách quy Ngô (Lý Bạch) thì mới thật sự cảm nhận hết cái dồn nén, chất chứa của tình người trong những câu hỏi tu từ hàm ý khẳng định:

            - Sao có tiếng sóng ở trong lòng?
            - Sao đầy hoàng hôn trong mắt trong?
Cũng như thế, câu thơ của Vân Đài:
            Gió xuân đâu biết cho lòng thiếp
            Ôm ấp bên mình thiếp mãi chi?

sẽ khó mà có được ấn tượng sâu đậm nếu như cơn gió ấy không làm ta nhớ tới ngọn gió xuiân đã từng thổi trong thơ Lý Bạch:
            Xuân phong bất tương thức
            Hà sự nhập la vi.
                                   
(Xuân tứ)

Chính nhờ vào sự liên tưởng được gợi, nên qua hình tượng “ gió xuân” mà “ chút hương sắc dục” trong lời thơ Vân Đài, đã được Hoài Thanh- Hoài Chân rất tinh tế nhận ra.

Tuy nhiên, điều quan trọng hơn mà chúng tôi muốn trình bày ở đây là tồn tại và hà chức như những điển tích điển cố, điều đó cũng có nghĩa các hình ảnh và ngôn ngữ Đường thi đã tham gia vào Thơ Mới theo trục lựa chọn chứ không phải trục kết hợp. Theo chúng tôi, ở chừng mực nào đó, giá trị của trục lựa chọn ở Thơ Mới chưa được đánh giá đúng mức. Đúng là trong Thơ Mới, tính chất “ hướng ngoại” (7) và câu thơ điệu nói của lời thơ là rất đậm nét. Nó làm xuất hiện giữa các dòng thơ những từ nối, làm xuất hiện hình thức câu thơ vắt dòng (trong Một thời đại trong thi ca của Hoài Thanh và Hoài Chân gọi là: “ Lối dùng chữ rớt”, làm xuất hiện những “ cơn mưa ngôn từ, hình ảnh” (Đỗ Đức Hiểu)..., tác động trực tiếp vào cảm nhận của người đọc, gây nên sức mê hoặc dẫn dụ của lời thơ. Nhưng dòng thác ngôn từ và tính hình tượng (hiểu theo nghĩa đối lập với ý tưởng) vẫn có điểm dừng, chính lúc đó trục lựa chọn sẽ phát huy tác dụng đem lại cho lời thơ sự lắng đọng, sâu lắng cần thiết. Trục lựa chọn này trong Thơ Mới, một phần lớn được xây dựng từ những chất liệu của Đường thi. Sẽ không mấy ngạc nhiên khi bắt gặp hiện tượng: sau một loạt những câu thơ điệu nói, được tổ chức theo nguyên tắc hướng ngoại tạo hình:

            Chớ để riêng em gặp phải lòng em
            Tay ái ân du khách đã làm rèm,
            Tóc xanh tốt em xin nguyền dệt võng
            Đẩy hộ hồn em triền miên trên sóng
            Trôi phiêu lưu không vọng bến hay gành
            Vì mình em không được quấn chân anh,
            Tóc không phải những dây tình vướng víu
            Em sợ lắm! Giá băng tràn mọi nẻo
            Trời đầy trăng lạnh lẽo suốt xương da
            (Lời kỹ nữ)
 
Xuân Diệu đã tìm về với trục lựa chọn để khép lại trường đoạn thơ này:
            Người giai nhân: Bến đợi dưới cây già
            Tình du khách: Thuyền qua không buộc chặt

Tóm lại theo chúng tôi nên hiểu trục lựa chọn (với sự xuất hiện của các chất liệu Đường thi) ở đây như một sự đối lập nội tại với câu thơ điệu nói mang tính tạo hình trong Thơ Mới. Điều này khiến cho khả năng phô diễn tình cảm của Thơ Mới giàu có hơn các sắc điệu và khả năng biểu hiện. Mặt khác, trong Ngôn ngữ Thơ Nguyễn Phan Cảnh xếp điển tích, điển cố vào nhóm các phương thức chuyển nghĩa có tính chất ẩn dụ bao gồm: so sánh, tỷ dụ, phúng dụ, ẩn dụ, điển tích (8)... Sự xuất hiện của chất liệu Đường thi với dạng thức của những điển cố cho thấy tư duy của các nhà Thơ Mới rất quen thuộc với phương thức chuyển nghĩa có tính chất ẩn dụ. Phải chăng điều này đã tạo thuận lợi cho biện pháp ẩn dụ tượng trưng, ẩn dụ bổ sung (còn gọi là ẩn dụ chuyển đổi cảm giác) vốn đậm đà mầu sắc phương Tây đã được nhập nội và được Việt hóa một cách nhanh chóng. Hiểu như thế cách sử dụng chất liệu theo phương thức ẩn dụ của Đường thi dường như đã trở thành cơ chế để chuyển tải những ảnh hưởng của thơ Pháp vào Việt Nam. Trong bài tổng luận Một thời đại trong thi ca chính Hoài Thanh- Hoài Chân cũng đã hơn một lần nói tới quan hệ giữa Thơ Đường và thơ tượng trưng Pháp, đặc biệt là thơ tượng trưng của Baudelaire. Theo hai ông điểm tương đồng giữa thơ tượng trưng và Thơ Đường là ở chỗ: “ Hai lối thơ đều ghét lý luận, ghét kể chuyện, ghét tả chân”

Thứ tư: Sự ảnh hưởng của liên thơ, của cấu trúc ngữ pháp trong Đường thi như đã phân tích ở trên mờ nhạt hơn rất nhiều so với những ảnh hưởng của hệ thống từ ngữ, hình ảnh. Điều này cho thấy Đường thi ảnh hưởng vào Thơ Mới không nguyên khối. Trong quá trình tiếp xúc với Thơ Mới, những liên kết bên trong, đặc trưng cho tư duy Đường thi đã bị tháo dỡ, gạt bỏ. Những từ ngữ, hình ảnh, do thế, chỉ còn như những mảnh vỡ bị hút vào một từ trường, một qũi đạo mới.

Kết luận này, đến lượt nó, giúp ta có thể nói đến lần tiếp biến (acculturation) thứ hai của Đường thi trong văn học Việt Nam. Ở lần tiếp biến thứ nhất, Đường thi thâm nhập vào văn học Việt Nam trên cơ sở “ đồng văn” (“ văn” ở đây được hiểu vừa như là văn tự, vừa như những giá trị đóng vai trò là hệ qui chiếu bên trong). Trong lần tiếp biến này “ ta” và “ kẻ khác” là một và do thế trên những nét lớn, chưa tạo được thế đối thoại chủ- khách để hình thành nên những kết tinh nghệ thuật mới. Những nỗ lực tiếp nhận văn hóa, văn học Trung Hoa, (trong đó có Đường thi) đúng như GS Trần Đình Hượu nhận xét: Không nhằm giúp ta khác, mà chỉ nhằm sánh ngang, “theo kịp” với Trung Hoa (9)

Sự tiếp biến của Thơ Mới với Đường thi có khác. Anh hưởng của văn hóa thi ca phương Tây đã khiến cho cái tôi trữ tình trong Thơ Mới thuộc về một loại hình khác hẳn cái tôi trữ tình trong Đường thi. Những chất liệu Đường thi trong Thơ Mới một mặt vẫn gắn bó với nguồn gốc của mình, mặt khác khi được cơ cấu, được cấy vào một chỉnh thể nghệ thuật mới mà chúng được hấp thụ, bổ sung thêm những âm giọng mới. Trong lần tiếp biến này, ngôn từ, hình ảnh Đường thi đã trở nên đa âm hơn. Không hiếm lần các nhà Thơ Mới sử dụng chất liệu Đường thi trong thế đối thoại ngầm ẩn:

            Đưa người ta không đưa qua sông
            Sao có tiếng sóng ở trong lòng
            Bóng chiều không thắm không vàng vọt
            Sao đầy hoàng hôn trong mắt trong
            (Tống biệt hành- Thâm Tâm)
            Lòng quê dợn dợn vời non nước
            Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà
            (Tràng giang- Huy Cận)

Ở những câu thơ vừa trích dẫn, các hình ảnh bến sông, hoàng hôn... chẳng những có khả năng gây nên những liên tưởng phong phú mà trong chúng, dường như cùng lúc âm vang nhiều giọng điệu, nhiều âm sắc.
So với lần tiếp biến thứ nhất, ở lần thứ hai này, những chất liệu Đường thi đã rời xa cội nguồn ban đầu của nó, bù lại, chúng lại được tiếp thêm một sinh lực và một năng lượng biểu đạt nghệ thuật mới.

Trên đây là những tìm hiểu của chúng tôi về ảnh hưởng của Đường thi vào Thơ Mới. Trong bài viết này chúng tôi mới chỉ dừng lại miêu tả ở cấp độ hình thức với những biểu hiện có thể quan sát được. Hy vọng rằng chúng tôi sẽ có dịp trở lại vấn đề này trên những bình diện khác.

T.V.T - N.X.D
(129/11-1999)


--------------------------------------------------------------
(1). Phạm vi khảo sát của chúng tôi chỉ mới dừng lại ở lớp hình thức bề mặt của tác phẩm, rất nhiều những bình diện khác như: bút pháp, cấu tứ, hệ thống quan niệm nghệ thuật... còn chưa được đề cập tới.
(2)+ (3). Nguyễn Khắc Phi và Trần Đình Sử, Về thi pháp thơ Đường. NXB Đà Nẵng, 1997, trang 53.
(3)+ (4). N. Kôn rat: Phương Đông và Phương Tây. Trịnh Bá Đĩnh dịch. Nxb Giáo dục, Hà Nội 1997, tr 109. Những chữ trong hai ngoặc đơn là do chúng tôi thêm vào để rõ nghĩa hơn.
(5). Thụy Khuê: Cấu trúc thơ. NXB Văn Nghệ. California. Mỹ, 1996, tr. 112 và 115
 (6) Thơ văn Hàn Mặc Tử. Phan Cự Đệ biên soạn. NXB Giáo dục. H, 1993.
(7). Chúng tôi sử dụng thuật ngữ này theo nội hàm nghĩa của GS Trần Đình Sử, đã giới thuyết: Hướng ngoại ở đây được hiểu “ như một nguyên tắc xây dựng hình tượng thơ”, nó “ xác định một quan hệ trực tiếp giữa nhân vật trữ tình và thế giới xung quanh nó như một quan hệ cảm nhận trực tiếp, cho phép phản ánh thế giới cảm tính của con người một cách cụ thể, sắc bén chưa từng có” (Tạp chí Văn học- số 6 - 1993, trang 14)
(8) Nguyễn Phan Cảnh: Ngôn ngữ thơ. Nxb ĐH và GDCN, Hà Nội 1997.
(9). Trần Đình Hượu: Nho giáo và văn học Việt Nam trung cận đại. Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội 1995, tr 425



 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • LÊ DỤC TÚCùng với nghệ thuật tiếp cận và phản ánh hiện thực, nghệ thuật miêu tả và khắc họa chân dung nhân vật, nghệ thuật châm biếm và sử dụng ngôn ngữ cũng là một trong những nét nghệ thuật đặc sắc ta thường gặp trong các phóng sự Việt Nam 1932 - 1945.

  • NGUYỄN VĂN DÂNTrong thế kỷ XX vừa qua, thế giới, đặc biệt là thế giới phương Tây, đã sản sinh ra biết bao phương pháp phục vụ cho nghiên cứu văn học, trong đó phương pháp cấu trúc là một trong những phương pháp được quan tâm nhiều nhất.

  • AN KHÁNHHai mươi tám năm kể từ ngày chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam, đủ để một thế hệ trưởng thành, một dòng thơ định vị. Tháng 3 vừa qua, Hội Văn nghệ Hà Nội và nhóm nhà thơ - nhà văn - cựu binh Mỹ có cuộc giao lưu thú vị, nhằm tìm ra tiếng nói "tương đồng", sự thân ái giữa các thế hệ Mỹ - Việt thông qua những thông điệp của văn chương.

  • TRẦN ĐÌNH SỬ Bạn đọc Việt Nam vốn không xa lạ với phê bình phân tâm học hơn nửa thế kỷ nay, bởi nó đã bắt đầu được giới thiệu vào nước ta từ những năm ba mươi, bốn mươi thế kỷ trước. Nhưng đáng tiếc nó đã bị kỳ thị rất nặng nề từ nhiều phía. Giống như nhân loại có thời phản ứng với Darwin vì không chấp nhận lý thuyết xem con người là một loài cao quý lại có thể tiến hóa từ một loài tầm thường như loài khỉ, người ta cũng không thể chấp nhận lý thuyết phân tâm học xem con người - một sinh vật có lý trí cao quý lại có thể bị sai khiến bởi bản năng tầm thường như các loài vật hạ đẳng!

  • PHẠM ĐÌNH ÂN(Nhân kỷ niệm lần thứ 20 ngày mất của Thế Lữ 3-6-1989 – 3-6-2009)Nói đến Thế Lữ, trước tiên là nói đến một nhà thơ tài danh, người góp phần lớn mở đầu phong trào Thơ Mới (1932-1945), cũng là nhà thơ tiêu biểu nhất của Thơ Mới buổi đầu. Ông còn là cây bút văn xuôi nghệ thuật tài hoa, là nhà báo, dịch giả và nổi bật là nhà hoạt động sân khấu xuất sắc, cụ thể là đưa nghệ thuật biểu diễn kịch nói nước nhà trở thành chuyên nghiệp theo hướng hiện đại hóa.

  • THÁI DOÃN HIỂUPhàm trần chưa rõ vàng thauChân tâm chẳng biết ở đâu mà tìm.                                VẠN HẠNH Thiền sư

  • HỒ THẾ HÀ  Thi ca là một loại hình nghệ thuật ngôn từ đặc biệt. Nó là điển hình của cảm xúc và tâm trạng được chứa đựng bởi một hình thức - “hình thức mang tính quan niệm” cũng rất đặc biệt. Sự “quái đản” trong sử dụng ngôn từ; sự chuyển nghĩa, tạo sinh nghĩa trong việc sử dụng các biện pháp tu từ; sự trừu tượng hoá, khái quát hoá các trạng thái tình cảm, hiện thực và khát vọng sống của con người; sự hữu hình hoá hoặc vô hình hoá các cảm xúc, đối tượng; sự âm thanh hoá theo quy luật của khoa phát âm thực nghiệm học (phonétique  expérimentale)...đã làm cho thi ca có sức quyến rũ bội phần (multiple) so với các thể loại nghệ thuật ngôn từ khác.

  • LÊ XUÂN LÍTHỏi: Mã Giám Sinh sau khi mua được Kiều, Mã phải đưa Kiều đi ròng rã một tháng tròn mới đến Lâm Tri, nơi Tú Bà đang chờ đợi. Trên đường, Mã đâm thèm muốn chuyện “nước trước bẻ hoa”. Hắn nghĩ ra đủ mưu mẹo, lí lẽ và hắn đâm liều, Nguyễn Du viết:              Đào tiên đã bén tay phàm              Thì vin cành quít, cho cam sự đờiĐào tiên ở đây là quả cây đào. Sao câu dưới lại vin cành quít? Nguyễn Du có lẩm cẩm không?

  • CHU ĐÌNH KIÊN1. Có những tác phẩm người đọc phải thực sự “vật lộn” trên từng trang giấy, mới có thể hiểu được nhà văn muốn nói điều gì. Đó là hiện tượng “Những kẻ thiện tâm” (Les Bienveillantes) của Jonathan Littell. Một “cas” được xem là quá khó đọc. Tác phẩm đã đạt hai giải thưởng danh giá của nước Pháp là: giải Goncourt và giải thưởng của Viện hàn lâm Pháp.

  • PHONG LÊSinh năm 1893, Ngô Tất Tố rõ ràng là bậc tiền bối của số rất lớn, nếu không nói là tất cả những người làm nên diện mạo hiện đại của văn học Việt Nam thời 1932-1945. Tất cả - gồm những gương mặt tiêu biểu trong phong trào Thơ mới, Tự Lực văn đoàn và trào lưu hiện thực đều ra đời sau ông từ 10 đến 20 năm, thậm chí ngót 30 năm.

  • HẢI TRUNGHiện tượng ngôn ngữ lai tạp hay gọi nôm na là tiếng bồi, tiếng lơ lớ (Pidgins và Creoles) được ngành ngôn ngữ học đề cập đến với những đặc trưng gắn liền với xã hội. Nguồn gốc ra đời của loại hình ngôn ngữ này có nhiều nét khác biệt so với ngôn ngữ nói chung. Đây không chỉ là một hiện tượng cá thể của một cộng đồng ngôn ngữ nào, mà nó có thể phát sinh gắn liền với những diễn biến, những thay đổi, sự phát triển của lịch sử, xã hội của nhiều dân tộc, nhiều quốc gia khác nhau.

  • BÙI NGỌC TẤN... Đã bao nhiêu cuộc hội thảo, bao nhiêu cuộc tổng kết, bao nhiêu cuộc thi cùng với bao nhiêu giải thưởng, văn chương của chúng ta, đặc biệt là tiểu thuyết vẫn chẳng tiến lên. Rất nhiều tiền của bỏ ra, rất nhiều trí tuệ công sức đã được đầu tư để rồi không đạt được điều mong muốn. Không có được những sáng tác hay, những tác phẩm chịu được thử thách của thời gian. Sự thất thu này đều đã được tiêu liệu.

  • NGUYỄN HUỆ CHICao Bá Quát là một tài thơ trác việt ở nửa đầu thế kỷ XIX. Thơ ông có những cách tân nghệ thuật táo bạo, không còn là loại thơ “kỷ sự” của thế kỷ XVIII mà đã chuyển sang một giọng điệu mới, kết hợp tự sự với độc thoại, cho nên lời thơ hàm súc, đa nghĩa, và mạch thơ hướng tới những đề tài có ý nghĩa xã hội sâu rộng.

  • NGUYỄN TRƯƠNG ĐÀNĐã nhiều sử liệu viết về cuộc xử án vua Duy Tân và các lãnh tụ khởi xướng cuộc khởi nghĩa bất thành tháng 5-1916, mà trong đó hai chí sĩ Thái Phiên - Trần Cao Vân là hai vị đứng đầu. Tất cả các sử liệu đều cho rằng, việc hành hình đối với Thái Phiên, Trần Cao Vân, Tôn Thất Đề, Nguyễn Quang Siêu diễn ra vào sáng ngày 17-5-1916. Ngay cả trong họ tộc hai nhà chí sĩ, việc ghi nhớ để cúng kỵ, hoặc tổ chức kỷ niệm cũng được tính theo ngày như thế.

  • PHONG LÊBây giờ, sau 60 năm - với bao là biến động, phát triển theo gia tốc lớn của lịch sử trong thế kỷ XX - từ một nước còn bị nô lệ, rên xiết dưới hai tầng xiềng xích Pháp-Nhật đã vùng dậy làm một cuộc Cách mạng tháng Tám vĩ đại, rồi tiến hành hai cuộc kháng chiến trong suốt 30 năm, đi tới thống nhất và phát triển đất nước theo định hướng mới của chủ nghĩa xã hội, và đang triển khai một cuộc hội nhập lớn với nhân loại; - bây giờ, sau bao biến thiên ấy mà nhìn lại Đề cương về văn hoá Việt Nam năm 1943(1), quả không khó khăn, thậm chí là dễ thấy những mặt bất cập của Đề cương... trong nhìn nhận và đánh giá lịch sử dân tộc và văn hoá dân tộc, từ quá khứ đến hiện tại (ở thời điểm 1943); và nhìn rộng ra thế giới, trong cục diện sự phát triển của chủ nghĩa tư bản hiện đại; và gắn với nó, văn hoá, văn chương - học thuật cũng đang chuyển sang giai đoạn Hiện đại và Hậu hiện đại...

  • TƯƠNG LAITrung thực là phẩm chất hàng đầu của một người dám tự nhận mình là nhà khoa học. Mà thật ra, đâu chỉ nhà khoa học mới cần đến phẩm chất ấy, nhà chính trị, nhà kinh tế, nhà văn hoá... và bất cứ là "nhà" gì đi chăng nữa, trước hết phải là một con người biết tự trọng để không làm những việc khuất tất, không nói dối để cho mình phải hổ thẹn với chính mình. Đấy là trường hợp được vận dụng cho những người chưa bị đứt "dây thần kinh xấu hổ", chứ khi đã đứt mất cái đó rồi, thì sự cắn rứt lương tâm cũng không còn, lấy đâu ra sự tự phản tỉnh để mà còn biết xấu hổ. Mà trò đời, "đã trót thì phải trét", đã nói dối thì rồi cứ phải nói dối quanh, vì "dại rồi còn biết khôn làm sao đây".

  • MÃ GIANG LÂNVăn học tồn tại được nhiều khi phụ thuộc vào độc giả. Độc giả tiếp nhận tác phẩm như thế nào? Tiếp nhận và truyền đạt cho người khác. Có khi tiếp nhận rồi nhưng lại rất khó truyền đạt. Trường hợp này thường diễn ra với tác phẩm thơ. Thực ra tiếp nhận là một quá trình. Mỗi lần đọc là một lần tiếp nhận, phát hiện.

  • HÀ VĂN LƯỠNGTrong dòng chảy của văn học Nga thế kỷ XX, bộ phận văn học Nga ở hải ngoại chiếm một vị trí nhất định, tạo nên sự thống nhất, đa dạng của thế kỷ văn học này (bao gồm các mảng: văn học đầu thế kỷ, văn học thời kỳ Xô Viết, văn học Nga ở hải ngoại và văn học Nga hậu Xô Viết). Nhưng việc nhận chân những giá trị của mảng văn học này với tư cách là một bộ phận của văn học Nga thế kỷ XX thì dường như diễn ra quá chậm (mãi đến những thập niên 70, 80 trở đi của thế kỷ XX) và phức tạp, thậm chí có ý kiến đối lập nhau.

  • TRẦN THANH MẠILTS: Nhà văn Trần Thanh Mại (1908-1965) là người con xứ Huế. Tên ông đã được đặt cho một con đường ở đây và một con đường ở thành phố Hồ Chí Minh. Trần Thanh Mại toàn tập (ba tập) cũng đã được Nhà xuất bản Văn học phát hành năm 2004.Vừa rồi, nhà văn Hồng Diệu, trong dịp vào thành phố Hồ Chí Minh dự lễ kỷ niệm 100 năm ngày sinh nhà văn Trần Thanh Mại, đã tìm thấy trang di cảo lưu tại gia đình. Bài nghiên cứu dưới đây, do chính nhà văn Trần Thanh Mại viết tay, có nhiều chỗ cắt dán, thêm bớt, hoặc mờ. Nhà văn Hồng Diệu đã khôi phục lại bài viết, và gửi cho Sông Hương. Chúng tôi xin cám ơn nhà văn Hồng Diệu và trân trọng giới thiệu bài này cùng bạn đọc.S.H

  • TRẦN HUYỀN SÂMLý luận văn học và phê bình văn học là những khái niệm đã được xác định. Đó là hai thuật ngữ chỉ hai phân môn trong Khoa nghiên cứu văn học. Mỗi khi khái niệm đã được xác định, tức là chúng đã có đặc trưng riêng, phạm trù riêng. Và vì thế, mục đích và ý nghĩa của nó cũng rất riêng.