Anh hùng ca

17:26 30/12/2022


NGUYỄN QUANG HÀ
                    Bút ký

"Trước lúc lên đường" - Ảnh: ĐÀO HOA NỮ

1. Trong Từ điển Bách khoa Việt Nam, có một định nghĩa về Anh hùng: là người khác với mọi người về hành động phi thường hoặc có tầm cỡ lớn lao của lòng dũng cảm. Và nội dung Anh hùng ca được giải thích: phản ảnh những sự kiện lớn có ý nghĩa lịch sử trong đời sống một dân tộc, một quốc gia qua đó khẳng định lý tưởng nguyện vọng của nhân dân, của thời đại.

2. Xin bắt đầu bản Anh hùng ca này bằng lời kể của ông Lê Đức Tài:

- Năm 1954, tập kết. Tôi ở lại, là bí thư Đảng ủy xã Phú Đa. Địch khủng bố dữ dội bằng chính sách tố cộng. Bám đất, gian khổ, đói. Tôi bệnh. Năm 1957 được đưa ra Hà Nội chữa bệnh khỏi. Cuối 57 tôi vào lại chiến trường.

Lúc này các cơ sở đảng của ta đã bị phá hết. Trắng tay. Có thể nói là không còn ai. Để trở lại đồng bằng, ban cán sự Đảng ủy Phú Vang được thành lập gồm ba người: Tôi, anh Trân, anh Đống. Ba người thành lập một chi bộ. Tôi là bí thư.

Biết các cơ sở cách mạng tan. Cá bị tách khỏi nước. Địch cho dân lên rừng làm nghề sơn tràng. Lợi dụng tình hình ấy, chúng tôi tìm được ba người ở Phú Đa: ông Đặng, ông Ba, ông Dư. Tuyên truyền cách mạng cho họ rồi kết nạp ba người vào Đảng, tại Khe Vàng. Ba người ấy là chi bộ vùng sâu. Nhiệm vụ của họ là móc nối cơ sở ở địa bàn, xây dựng phong trào, chuẩn bị đón thời cơ.

Sau địch đánh hơi phong trào cách mạng rục rịch trở lại, chúng cấm tiệt dân đi rừng. Chúng tôi mất liên lạc. Ban cán sự nhận định "Các đồng chí ở Phú Vang mất liên lạc nhưng vẫn hướng về Đảng, hoạt động cho Đảng". Từ nhận định ấy, chúng tôi khẳng định: dù trong vòng o ép của địch, dân vẫn chờ cách mạng về.

Nghị quyết của ban cán sự là nguy hiểm mấy cũng phải về bám dân. Tôi thông thuộc Phú Đa hơn cả, nên về trước.

Tôi đi theo hướng Thủy Tân. Đi theo kiểu sâu đo. Đến thôn Tô Đà, làm hầm bí mật ở, rồi đi tiếp. Lúc nào trên lưng cũng có lương thực cho 15 ngày, cơm rang 3 ngày, có lò xô, dầu lửa và mang theo cả miệng hầm bí mật làm sẵn.

Đi tiếp. Đến Phú Đa, làm hầm bí mật giữa đồng. Đi với tôi có đồng chí Chiến. Hai anh em bàn nhau: Đến Phú Đa rồi, người ta sẽ bắt liên lạc là ai để chắc thắng. Bắt liên lạc lầm, mất đầu như chơi.

3. Nhà chúng tôi chọn là nhà ông Vương Hoán. Xưa, gia đình ông Hoán là người trung kiên. Đã có 4 người hy sinh trong kháng chiến chống Pháp, tin được. Đêm sáng trăng nên địch chủ quan lơ là cảnh giác hơn.

Vào nhà, tôi gặp ngay Vương Hoán. Cầm tay ông, và bấm đèn pin vào mặt mình, hỏi:

- Ngó xem tôi là ai? Tài đây. Tài ở trên rừng về đây. Nhận ra chưa?

- Tau nhớ rồi.

Tôi tắt đèn, kéo ông Vương Hoán ra đồng rơm ngồi:

- Hôm nay tôi được Đảng phân công về đây giao trách nhiệm cho đồng chí.

- Trách nhiệm gì? - Ông hỏi.

- Trước tiên bảo vệ anh em tôi.

- Được! Được!

Chúng tôi ở trong buồng chị Lành, con gái ông. Đêm sau ông Vương Hoán huy động cả vợ con làm 1 hầm bí mật cho chúng tôi ngay trong nhà, 1 hầm ngoài bờ ruộng, 1 hầm ngoài đồng.

Chị Lành giúp chúng tôi liên lạc với anh Đặng. Đêm sau chúng tôi qua buồng anh Đặng ở, cũng làm thêm hai cái hầm bí mật.

Lửa cách mạng Phú Đa được nhen lên.

Chi bộ Đức Thái được thành lập. Nghị quyết ghi rõ: "tiếp tục xây dựng cơ sở cách mạng trong lòng địch, làm hầm bí mật để đưa người về bổ sung cho phong trào".

4. Gia đình ông Vương Hoán có hai anh em. Ông và người em gái của ông là Vương Thị Phi. Tất cả vợ chồng con cháu của các gia đình vô danh, nghèo túng như hầu hết các gia đình vô danh Việt Nam đều một lòng một dạ với cách mạng. Bởi làm người dân mất nước trăm bề khổ cực lắm rồi hai chữ Độc Lập trở thành khát vọng. Đúng như lời kêu gọi của Hồ Chủ tịch: "Thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ".

Lòng khát vọng độc lập của họ thế nào thì chính máu xương của họ làm minh chứng.

Có thể kể thật tóm tắt ra đây:

1. Gia đình ông Vương Hoán:

- Bản thân ông Vương Hoán là liệt sĩ.

- Trong 6 người con thì 5 con là liệt sĩ.

- 2 người rể là liệt sĩ.

- 8 cháu là liệt sĩ.

2. Gia đình bà Vương Thị Phi:

- 1 con rể là liệt sĩ.

- 3 con là liệt sĩ.

- 4 cháu là liệt sĩ.

- Trần Phong, con trai bà là anh hùng lực lượng vũ trang.

* * *

5. Để đánh giá gia đình ông Vương Hoán một cách tương đối đầy đủ, ta có một danh mục đại cương như sau:

+ Một gia đình có 6 bà mẹ được Nhà nước tuyên dương danh hiệu: "Bà mẹ Việt Nam Anh hùng":

- Mẹ Trần Thị Định

- Mẹ Vương Thị Lành (con gái)

- Mẹ Phan Thị Thể (con dâu)

- Mẹ Phan Thị Vũ (con dâu)

- Mẹ Vương Thị Phi (con gái)

- Mẹ Trần Thị Lùn (cháu ngoại)

+ Một anh hùng lực lượng vũ trang: anh Trần Phong.

+ 24 liệt sĩ. Trong số 24 liệt sĩ này, thì 22 người đang ở độ tuổi thanh niên.

Không thể kể ra đây hết! Nhưng mỗi người là một tấm gương hy sinh anh dũng tuyệt vời.

Bà Vương Thị Lành bị bắt đi tố cộng. Trước khi đi, bà mở nắp hầm bí mật nói với anh Lê Đức Tài: "Chúng bắt tôi đi học, để giữ thể hợp pháp, tôi phải đi. Nhưng anh cứ tin tôi. Dẫu có chết, tôi không bao giờ phản Đảng". Bà gọi con đến dặn: "Tau đi học, mi ở nhà lo cơm nước, đậy nắp hầm, cảnh giác cho các chú cẩn thận". Quả nhiên bà giữ đúng lời hứa. Chúng đánh đau quá, về nhà, bà chết.

Ông Vương Hoán xây hầm bí mật cho cán bộ ngay đống rơm nhà mình. Chúng phát hiện, bắt ông khai báo, ông chịu chết, không hé răng một lời.

Chị Vương Thị Xoa, du kích thôn Đức Thái, trong chiến đấu, bị địch bắt. Chúng trả thù bằng cách thay nhau hãm hiếp chị. Chị Xoa đã cắn lưỡi tự vẫn để giữ khí tiết của mình.

Ông Võ Ngạn bị bắt đày ra Côn Đảo. Hai lần vượt ngục, hai lần bị bắt lại. Chúng đã giết ông trong nhà tù.

Vương Thị Sen là y tá. Địch càn, anh em mình bị thương nhiều. Không kể bom đạn, chị xách túi cứu thương đi băng bó cho từng người. Máy bay trực thăng lượn trên đầu, chị vẫn không rời đồng đội, chúng xả súng bắn chết chị khi đang băng bó cho thương binh.

Anh Vương Hưng làm thợ may ở đường Thuận An. Nhưng thực chất anh là biệt động thành, là quận ủy quận 6. Bị vây ở Nhất Đông, anh chiến đấu đến viên đạn cuối cùng.

Anh Trần Vượng thường vụ huyện ủy huyện Phú Vang, bị phát hiện hầm, không chịu đầu hàng, cùng đồng đội đội nắp hầm, chiến đấu đến hơi thở cuối cùng.

Chị Võ Thị Em, chống càn, cây súng của chị dũng cảm, hết nã đạn vào kẻ thù trên bộ, lại khống chế trực thăng trên không. Khi chị chết, chiếc trực thăng đã hạ cánh tại chỗ cắt vú chị mang đi...

Còn anh hùng lực lượng vũ trang Trần Phong, người chiến sĩ an ninh gan dạ, là chiếc cầu nối tuyệt vời, là hoa tiêu tuyệt vời đưa bộ đội thọc sâu vào giữa thành Huế, đặc biệt là trận diệt 300 sĩ quan Mỹ ở khách sạn Hương Giang. Làm cả lũ giặc kinh hoàng.

6. Tôi nhớ trận đánh Mỹ đầu tiên: Trận Núi Thành. Chưa hiểu Mỹ thế nào. Ta chuẩn bị ba cơ số quân. Nghĩa là gấp 3 lần số lính Mỹ đóng đồn Núi Thành. Nếu thê đội một chết, thì thê đội hai thay, thê đội hai chết thì thê đội ba thay. Ba chọi một. Quyết tìm cách đánh Mỹ.

Đến Nguyễn Viết Xuân, anh khẳng định: "Đế quốc Mỹ không có gì đáng sợ. Nhằm thẳng quân thù mà bắn".

Rồi chị Út Tịch tuyên bố trang nghiêm: "Còn chiếc lai quần cũng đánh".

Ở Thừa Thiên, trong kháng chiến chống Mỹ, một nhà ba anh hùng: Hồ Vai, Kăn Lịch, A Nun.

Còn gia đình ông Vương Hoán, 6 bà mẹ anh hùng, 1 anh hùng lực lượng vũ trang, 24 liệt sĩ. Tôi không đi nhiều, không hiểu ở các địa phương khác có nhiều gia đình như vậy không. Dẫu sao, đây cũng là bằng cớ của ý chí độc lập, để người Mỹ hiểu thêm rằng: Vì sao nước Mỹ giàu và mạnh thế lại thua ở Việt Nam.

Riêng tôi, tôi gọi gia đình ông Vương Hoán là "Bản anh hùng ca đất nước".

7. Bữa tôi về thăm bà mẹ anh hùng Việt Nam Phan Thị Vũ. Bà già, tóc bạc trắng. Bà quên nhiều. Nhưng rất nhớ bữa nhà bà bị cày ủi. Rơm rạ, cây cối chất một đống. Bữa ấy từ chỗ dồn dân về thăm nền cũ, có gì động đậy trong đống lá. Khi bới ra, Bà thấy một anh cán bộ bị thương. Hai mẹ con vội đắp kín cho anh, rồi về đem thuốc thang, cơm nước tới nuôi nấng, chăm sóc anh. Đến khi anh khỏi, mẹ đưa trả anh về đơn vị.

Tôi hỏi mẹ:

- Mẹ còn nhớ anh ấy không?

Mẹ đáp:

- Nhớ chứ. Thằng Thiêng mà. Bây chừ hắn làm Trưởng phòng chi đó trên huyện.

- Anh ấy về thăm mẹ luôn chứ?

- Đâu có. Từ đó nó đi. Đi thẳng luôn.

Tôi giật mình tưởng nghe nhầm. Không sao hiểu nổi tại sao lại có những con người vong ơn đến thế...?

8. Tôi có được xem trên họa báo Liên Xô (cũ) một tượng đài 7 con chim xoè đuôi bay theo cùng một hướng. Đó là đài kỷ niệm một bà mẹ Liên Xô đã hiến dâng 7 đứa con của mình cho cuộc kháng chiến chống phát xít Đức. Thật là niềm kiêu hãnh và lòng trân trọng. Gia đình ông Vương Hoán, 24 liệt sĩ, 6 bà mẹ anh hùng, một anh hùng lực lượng vũ trang, biết đâu chẳng là một tia chớp xúc cảm cho một đề tài tạo hình của một nghệ nhân nào đó, để nói với cháu con sau này về cái giá máu xương mà thế hệ chúng ta đã trả cho độc lập tự do. Chứ không phải độc lập tự do ngẫu nhiên từ trên trời rơi xuống.

9. Chúng tôi rời cây súng chưa lâu và chúng tôi thường nguyện sống sao cho xứng với máu xương, đồng đội, nhân dân mình đã đổ xuống suốt 30 năm chiến tranh gian khổ và ác liệt. Dù thế nào chăng nữa cũng không được quên nhân dân của mình. Bác Hồ chẳng đã nói đó sao: "Không có nhân dân thì mình làm được gì". Điều đó nói mãi rồi. Đã cũ. Nhưng lúc nào cũng rất mới. Như ngọc càng rửa càng sáng vậy.

N.Q.H
(TCSH85/03-1996)

 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • HỒ DZẾNH
             Hồi ký

    Mai sau dù có bao giờ
    Đốt lò hương ấy, so tơ phím này

                                 NGUYỄN DU

  • LÝ HOÀI THU

    Tôi nhớ… một chiều cuối hạ năm 1972, trên con đường làng lát gạch tại nơi sơ tán Ứng Hòa - Hà Tây cũ, lần đầu tiên tôi nhìn thấy thầy. Lúc đó lớp Văn K16 của chúng tôi đang bước vào những tuần cuối của học kỳ II năm thứ nhất.

  • PHẠM THỊ CÚC

    (Tặng bạn bè Cầu Ngói Thanh Toàn nhân Ngày Thương binh Liệt sĩ)

  • Người ta vẫn nói Tô Hoài là “nhà văn của thiếu nhi”. Hình như chưa ai gọi ông là “nhà văn của tuổi già”. Cho dù giai đoạn cuối trong sự nghiệp của ông – cũng là giai đoạn khiến Tô Hoài trở thành “sự kiện” của đời sống văn học đương đại chứ không chỉ là sự nối dài những gì đã định hình tên tuổi ông từ quá khứ - sáng tác của ông thường xoay quanh một hình tượng người kể chuyện từng trải qua nhiều thời kỳ lịch sử, nhiều thăng trầm của đời sống, giờ đây ngồi nhớ lại, ngẫm lại, viết lại quá khứ, không phải nhằm dạy dỗ, khuyên nhủ gì ai, mà chỉ vì muốn lưu giữ và thú nhận.

  • CAO THỊ QUẾ HƯƠNG

    Tôi được gặp và quen nhạc sĩ Trịnh Công Sơn vào những ngày đầu mùa hè năm 1966 khi anh cùng anh Trần Viết Ngạc đến trụ sở Tổng hội Sinh viên, số 4 Duy Tân, Sài Gòn trình diễn các bài hát trong tập “Ca khúc da vàng”.

  • THÁI KIM LAN

    Lớp đệ nhất C2 của chúng tôi ở trường Quốc Học thập niên 60, niên khóa 59/60 gồm những nữ sinh (không kể đám nam sinh học trường Quốc Học và những trường khác đến) từ trường Đồng Khánh lên, những đứa đã qua phần tú tài 1.

  • Nhung nhăng, tần suất ấy dường như khá dày, là ngôn từ của nhà văn Tô Hoài để vận vào những trường hợp, lắm khi chả phải đi đứng thế này thế nọ mà đương bập vào việc chi đó?

  • Tôi được quen biết GS. Nguyễn Khắc Phi khá muộn. Đó là vào khoảng đầu những năm 80 của thế kỉ trước, khi anh được chuyển công tác từ trường ĐHSP Vinh ra khoa Văn ĐHSPHN.

  • Năm 1960, tôi học lớp cuối cấp 3. Một hôm, ở khu tập  thể trường cấp 2 tranh nứa của tôi ở tỉnh, vợ một thầy giáo dạy Văn, cùng nhà, mang về cho chồng một cuốn sách mới. Chị là người bán sách.

  • DƯƠNG PHƯỚC THU

    LTS: Trên số báo 5965 ra ngày 07/02/2014, báo Thừa Thiên Huế có bài “Vài điều trong các bài viết về Cố Đại tướng Nguyễn Chí Thanh”, của tác giả Phạm Xuân Phụng, trong đó có nhắc nhiều đến các bài viết về Đại tướng đã đăng trên Sông Hương số đặc biệt tháng 12/2013 (số ĐB thứ 11), và cho rằng có nhiều sai sót trong các bài viết đó.

  • NGUYỄN THỊ PHƯỚC LIÊN

    (Thương nhớ Cẩm Nhung của Hương, Lại, Nguyệt, Liên)

  • BÙI KIM CHI

    Trời cuối thu. Rất đẹp. Lá phượng vàng bay đầy đường. Tôi đang trong tâm trạng náo nức của một thoáng hương xưa với con đường Bộ Học (nay là Hàn Thuyên) của một thời mà thời gian này thuở ấy tôi đã cắp sách đến trường. Thời con gái của tôi thênh thang trở về với “cặp sách, nón lá, tóc xõa ngang vai, đạp xe đạp…”. Mắt rưng rưng… để rồi…

  • LÊ MINH
    Nguyên Tư lệnh chiến dịch Bí thư Thành ủy Huế (*)

    … Chỉ còn hai ngày nữa là chiến dịch mở; tôi xin bàn giao lại cho Quân khu chức vụ "chính ủy Ban chuẩn bị chiến trường" để quay về lo việc của Thành ủy mà lúc đó tôi vẫn là Bí thư.

  • NGUYỄN KHOA BỘI LAN

    Cách đây mấy chục năm ở thôn Gia Lạc (hiện nay là thôn Tây Thượng) xã Phú Thượng có hai nhà thơ khá quen thuộc của bà con yêu thơ xứ Huế. Đó là bác Thúc Giạ (Ưng Bình) chủ soái của Hương Bình thi xã và cha tôi, Thảo Am (Nguyễn Khoa Vi) phó soái.

  • (SHO). Nhân dân Việt Nam khắc sâu và nhớ mãi cuộc chiến đấu can trường bảo vệ biên giới tổ quốc thân yêu tháng 2/1979. Điều đó đã thêm vào trang sử hào hùng về tinh thần bảo vệ chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ thiêng liêng của dân tộc.

  • NGUYỄN CƯƠNG

    Có nhiều yếu tố để Cố đô Huế là một trung tâm văn hóa du lịch, trong đó có những con đường rợp bóng cây xanh làm cho Huế thơ mộng hơn, như đường Lê Lợi chạy dọc bên bờ sông Hương, đường 23/8 đi qua trước Đại Nội, rồi những con đường với những hàng cây phượng vỹ, xà cừ, bằng lăng, me xanh... điểm tô cho Huế.

  • HOÀNG HƯƠNG TRANG

    Cách nay hơn một thế kỷ, người Huế, kể cả lớp lao động, nông dân, buôn bán cho đến các cậu mợ, các thầy các cô, các ông già bà lão, kể cả giới quý tộc, đều ghiền một lại thuốc lá gọi là thuốc Cẩm Lệ.

  • PHẠM HỮU THU

    Với tư cách là Bí thư Tỉnh ủy lâm thời và Chủ tịch Uỷ ban Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh (Việt Minh) của tỉnh Thừa Thiên - Huế, đầu năm 1942, sau khi vượt ngục trở về, đồng chí Nguyễn Chí Thanh đã có quãng thời gian gắn bó với vùng đầm Cầu Hai, nơi có cồn Rau Câu, được Tỉnh ủy lâm thời chọn làm địa điểm huấn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên.
    Để đảm bảo bí mật và an toàn, Tỉnh ủy đã chọn một số cơ sở là cư dân thủy diện đảm trách việc bảo vệ và đưa đón cán bộ.
    Số cơ sở này chủ yếu là dân vạn đò của làng chài Nghi Xuân.

  • TRẦN NGUYÊN

    Thăm Khu lưu niệm Đại tướng Nguyễn Chí Thanh, như được trở về mái nhà thân thương nơi làng quê yêu dấu. Những ngôi nhà bình dị nối nhau với liếp cửa mở rộng đón ánh nắng rọi vào góc sâu nhất.

  • PHẠM HỮU THU
           Nhân kỷ niệm ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam 22 - 12

    “Có những sự thật quá lớn lao của một thời, đến nỗi hậu thế nhìn qua lớp sương mù của thời gian, không thể nào tin nổi” (Nhà văn Phùng Quán).