Aleksandr Solzhenitsyn, một nhà văn lớn của văn học Nga thế kỷ XX

16:29 02/12/2008
HÀ VĂN LƯỠNGTrong văn học Nga thế kỷ XX, Aleksandr Solzhenitsyn là một trong những nhà văn lớn, nổi tiếng có nhiều đóng góp cho nền văn học Nga trên nhiều phương diện, một người suốt đời tận tụy và kiên trì đấu tranh cho sự chiến thắng của nghệ thuật, của sự thật đối với những cái xấu, cái ác. Nhưng ông cũng là một nhà văn có cuộc đời đầy thăng trầm, bất hạnh và phức tạp.

Đã từng sinh ra và sống ở nước Nga, rồi bị buộc phải rời bỏ Tổ quốc, bị tù đày trên hai chục năm, nhưng những năm cuối đời, A.Solzhenitsyn lại trở về đất mẹ Nga và sống những năm tháng đầy ý nghĩa. Nhưng dù làm gì, hay ở đâu, sống trong nước hay nước ngoài, A.Solzhenitsyn vẫn trọn đời tâm huyết với văn chương, gắn bó với Tổ quốc Nga, con người Nga và luôn giữ một niềm tin sắt đá về một nước Nga hùng cường có một vị thế xứng đáng trên trường quốc tế.

1.
Một cuộc đời đầy thăng trầm
Trong lịch sử xã hội Nga và lịch sử văn học Nga, Aleksandr Solzhenitsyn là một nhân vật lớn, một con người vĩ đại, đồng thời cũng chứa đầy những tính cách phức tạp. Những thăng trầm trong toàn bộ cuộc đời nhà văn khi đi trên “con đường đau khổ” vừa mang những yếu tố có tính chất cá biệt, vừa có những nét khá điển hình cho cả một thời đại ở một đất nước bao la, rộng lớn hùng hậu về nhiều mặt, nhưng luôn diễn ra những biến cố lịch sử trọng đại. Chính những tác động của lịch sử, xã hội đã để lại dấu ấn rất đậm nét trong cuộc đời và sáng tác của A.Solzhenitsyn. Cả cuộc đời của nhà văn là những chuỗi bi kịch nối tiếp, cả những cay đắng đến tận cùng và vinh quang đến tột đỉnh. Những bi kịch và thăng trầm của cuộc đời và sáng tác của nhà văn vừa mang những yếu tố của cá nhân nhưng cũng chứa đựng những tác động của lịch sử xã hội. Và với một nhãn quan của người trí thức, trong bối cảnh lịch sử cụ thể, A.Solzhenitsyn không thể hiểu và giải thích hết được mọi sự kiện, vì thế ông luôn là người trở nên “lạc thời mọi lúc”, luôn bị “hiểu nhầm”, bị “quy chụp” thậm chí bị “lợi dụng”.

Aleksandr Solzhenitsyn sinh ngày 11 tháng 12 năm 1918 tại Kislovodski, một tỉnh nhỏ thuộc vùng Bắc Kavkaz, miền Nam nước Nga trong một gia đình bố là một điền chủ kiêm nhà giáo và mẹ làm nghề đánh máy chữ. Tuổi thơ của A.Solzhenitsyn trôi qua trong khổ đau và bất hạnh: mồ côi cha khi còn nằm trong bụng mẹ, sự nghiệt ngã của cuộc chiến tranh nội chiến. Sự mất mát về tinh thần và sự thiếu thốn về vật chất trong những năm tháng tuổi thơ đã hằn một vết sâu trong ký ức của nhà văn tương lai.

Từ năm 1925 gia đình chuyển lên sống ở thành phố Roxtor - trên sông Đông và A.Solzhenitsyn tốt nghiệp trung học tại đây. Từ nhỏ A.Solzhenitsyn muốn trở thành nhà văn nhưng ông lại có năng khiếu về toán học nên năm 1936, ông vào học ngành toán - lý của Trường Đại học Tổng hợp Roxtov. Đồng thời, để thực hiện mộng văn chương của mình, ông còn theo học chương trình hàm thụ đại học ngành Triết - Văn - Sử của một trường đại học danh tiếng ở Moskva. Sau khi tốt nghiệp đại học, A.Solzhenitsyn làm giáo viên dạy toán tại một trường trung học ở Roxtov và cưới người vợ đầu tiên, một bạn cùng học đại học tên là Natalia Resetorscaia (1940).

Cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại của nhân dân Xô Viết chống chủ nghĩa phát xít Đức bùng nổ (22.6.1941), A.Solzhenitsyn nhập ngũ chiến đấu trong đơn vị kỵ binh, pháo binh cho đến cuối cuộc chiến tranh (1941 -1945). Ông có mặt từ mặt trận Lêningrat đến Ba Lan, Đông Phổ, Đức và chiến đấu dũng cảm được tặng thưởng hai huân chương và phong quân hàm đại uý.
Tháng 2 năm 1945, khi đang chiến đấu tại mặt trận miền Tây, A.Solzhenitsyn bị bắt đưa về nước kết án tù 8 năm (1945 -1953) vì tội “bôi nhọ, phê phán Stalin” và “làm lộ bí mật quân sự”. Thời gian tù đày, ông bị đưa đi lao động cải tạo tai nhiều nơi ở vùng Trung Á, làm đủ việc như thợ đúc, thợ nề, thợ đào đất… Sau đó, A.Solzhenitsyn được đưa về trại giam gần Moskva, nơi dành cho tù nhân trí thức. Chính tại nơi đây, Mavorino (tên địa danh trại giam) là bối cảnh để cho tác phẩm Từng địa ngục thứ nhất của ông sau này ra đời.

Được ra tù vào ngày 5.3.1953 nhưng A.Solzhenitsyn còn phải bị lưu đày thêm mấy năm nữa đến vùng . Tại đây ông dạy toán lý và thiên văn trong một trường cấp II. Năm 1957, ông hoàn toàn được trả lại quyền công dân, trở về dạy học ở thành phố Riazan, cách Moskva 200 km về phía . Đây là thời gian thuận lợi để A.Solzhenitsyn sáng tạo văn chương. Vào những năm cuối của thập niên 50 và những năm đầu thập niên 60 của thế kỷ XX, A.Solzhenitsyn say sưa hoạt động văn học và nhiều tác phẩm lớn ra đời trong thời kỳ này, đặc biệt là truyện Một ngày của Ivan Desinovich (1962), Ngôi nhà của Matriôna (1963)… Tháng 12/1969, A.Solzhenitsyn bị khai trừ ra khỏi Hội nhà văn Xô Viết và cấm không được in tác phẩm trong nước. Nhưng bằng nhiều con đường khác nhau, một số tác phẩm của ông được xuất bản ở nước ngoài. Với những tài năng văn chương của ông, năm 1970 Viện Hàn Lâm Thụy Điển đã trao giải Nobel văn chương cho A.Solzhenitsyn vì những tác phẩm của ông “mang sức mạnh đạo đức theo truyền thống của nền văn học Nga vĩ đại”. Năm 1974, A.Solzhenitsyn bị trục xuất khỏi nước Nga Xô Viết sang Tây Đức, rồi sống ở Thụy Sĩ, Pháp và từ năm 1976 cùng vợ và ba con đến định cư tại một thành phố nhỏ thuộc bang Vermont (Mỹ). Năm 1990, ông được khôi phục quốc tịch Nga và năm 1991, sau thời kỳ cải tổ, chính quyền Liên Xô chính thức xoá án cho A.Solzhenitsyn. Tháng 5 năm 1994, sau 20 năm lưu lạc ở nước ngoài, A.Solzhenitsyn trở về Tổ quốc Nga trong niềm vui vô bờ của ông và trong sự đón tiếp nồng nhiệt của nhân dân và đất nước Nga. Sự trở về của nhà văn A.Solzhenitsyn là một sự kiện lịch sử xã hội và văn học của nước Nga. Ông tiếp tục sự nghiệp văn chương, đi nhiều nơi nói chuyện với nhiều tầng lớp nhân dân về tương lai của nền văn học Nga và của nước Nga mới, thành lập quỹ văn học mang tên ông để tặng cho những nhà văn trẻ Nga có nhiều đóng góp cho văn học.

A.Solzhenitsyn là một tài năng văn chương lớn của nước Nga và thế giới nhưng cũng rất phức tạp. Xung quanh tên tuổi và tác phẩm của ông gây ra nhiều cuộc tranh luận khá sôi nổi và kịch liệt ở trong nước và Phương Tây. Tuy nhiên, điều khiến ông nổi tiếng và được tôn trọng, kính phục nhất là sự dũng cảm, quyết tâm đấu tranh đến cùng vì sự thật, vì những giá trị đạo đức cao cả, vì một thế giới luôn coi trọng phẩm giá của con người và vì một nước Nga vĩ đại và tâm hồn Nga thuần khiết.
A.Solzhenitsyn mất vào ngày mồng 3 tháng 8 năm 2008 tại nhà riêng ở Moskva vào tuổi 90.

2. Quan niệm về văn chương và sự nghiệp sáng tác của A.Solzhenitsyn

Là một trong những nhà văn lớn của nước Nga thế kỷ XX, A.Solzhenitsyn hoạt động không chỉ trong lĩnh vực văn học mà còn ở cả một số lĩnh vực xã hội khác. Những quan niệm về văn chương và khối lượng tác phẩm của ông để lại đã khẳng định tài năng nghệ thuật của nhà văn, đóng góp vào kho tàng văn học Nga phong phú và đa dạng ở thế kỷ XX.

2.1.
Trong thực tiễn sáng tác và qua nhiều phát biểu, A.Solzhenitsyn đã thể hiện rõ thiên chức nhà văn của mình và có quan niệm rất rõ ràng về văn chương. Theo ông, nhà văn Nga phải hướng về nhân dân Nga để thể hiện tiếng nói và khát vọng chân chính của họ. Nhân dân Nga là cội nguồn cảm hứng và đối tượng phản ánh của văn học Nga. Chính vì thế, trong suốt cuộc đời sống và sáng tạo văn học, mặc dù ở nhiều hoàn cảnh khác nhau nhưng A.Solzhenitsyn luôn hướng về nước Nga, về nhân dân Nga với một tình cảm chân thật, nồng hậu. Nhà văn thường tâm sự và trăn trở rằng, trong tôi dân tộc Nga, con người Nga luôn hiện hữu và thúc dục tôi trở về. Vì vậy, dù bị buộc phải rời Tổ quốc và sống lưu lạc hai mươi năm trời ở nước ngoài nhưng ông vẫn luôn tâm niệm và hướng về Tổ quốc. Trong một lần trò chuyện với nhà văn Mỹ Bemard Pivot, A.Solzhenitsyn nói rằng: “Trong tôi, có cảm tưởng, có điều xác tính rằng, tôi sẽ trở lại quê hương mình trong lúc còn sống”, và “tôi nhìn thấy ngày tôi trở về nước Nga”. Và cuộc trở về của nhà văn vào giữa năm 1994 là một điều minh chứng cho khát vọng về với quê hương, với nhân dân Nga của nhà văn.

Theo ông, sáng tác văn học không chỉ hướng về nhân dân, Tổ quốc mình mà điều quan trọng hơn của văn chương là góp phần nói lên sự thật trong con người, trong cuộc sống và đấu tranh bảo vệ đến cùng cho sự thật. Và điều đó có nghĩa là văn học phải chống lại mọi sự dối trá. A.Solzhenitsyn cho rằng: “…Nhà văn và nghệ sỹ còn có thể làm nhiều hơn thế: chiến thắng dối trá! Chính trong cuộc chiến với dối trá, nghệ thuật bao giờ cũng đã và đang chiến thắng - một cách hiển nhiên, không thể chối cãi được đối với tất cả! Dối trá có thể chống được rất nhiều thứ trên thế gian này, nhưng không thể chống được nghệ thuật” [1 – tr.382]. Và nhà văn cũng nhấn mạnh rằng, sáng tác văn học mà không đánh thức được ở độc giả sự rung động thực sự thì đó chỉ là  những sáng tác vô ích, không thực tế, “cái gì không thể xâm nhập được vào trái tim thì chỉ là lời nói suông”. Trong phần cuối kết thúc bài Diễn từ văn chương của ông lúc nhận giải Nobel văn học vào năm 1970, nhà văn đã nói rằng: “Một từ của sự thật còn nặng hơn cả thế giới”. Chính vì nói lên sự thật mà nhà văn phải suốt đời lận đận, thăng trầm, tù tội, phải rời xa Tổ quốc. Nhưng chính sự trở về của ông đã khẳng định những điều nhà văn tiên đoán và thể hiện trong tác phẩm là hoàn toàn vì sự thật.

Đề cập đến chức năng và nhiệm vụ của văn học nghệ thuật A.Solzhenitsyn khẳng định: “Văn học và nghệ thuật có thể làm nên điều kỳ diệu: chế ngự được cái đặc tính riêng biệt tai hại của con người là chỉ học trên kinh nghiệm của chính bản thân mình, khiến cho vốn kinh nghiệm của người khác đến với anh ta là vô ích… Nghệ thuật và văn học được ban cho một khả năng thần diệu: mang truyền những kinh nghiệm sống của cả một dân tộc này đến cho cả một dân tộc khác, vượt qua mọi sự khác biệt của ngôn ngữ, phong tục, lối sống xã hội… Và văn học còn mang truyền những kinh nghiệm chắt lọc không thể chối bỏ theo một hướng khác nữa: từ thế hệ trước sang thế hệ sau. Như vậy, văn học trở thành ký ức sống của dân tộc… Văn học giữ ấm trong mình và lưu lại lịch sử đã bị đánh mất của dân tộc. Đó là cách văn học cùng với ngôn ngữ gìn giữ tâm hồn dân tộc” (Diễn từ văn chương của A.Solzhenitsyn, năm 1970).

A.Solzhenitsyn quan niệm rằng, trong tác phẩm văn học, không nhất thiết bắt buộc phải có nhân vật chính, nhưng phải thể hiện rõ vai trò của tác giả, người kể chuyện một cách rõ ràng. Vì thế, những sáng tác của ông, phần lớn không có nhân vật chính và ông được xem như là một người viết tản văn lớn nhất của thế kỷ XX. Từ nhận thức về văn chương, A.Solzhenitsyn nói đến trách nhiệm và thiên chức của người cầm bút: “Nhiệm vụ của nhà văn nói chung không chỉ là bênh vực hay chỉ trích một phương pháp phân phối sản phẩm xã hội này hay một phương pháp khác, cũng không phải là bênh vực hay chỉ trích một hình thức tổ chức chính trị này hay một hình thức khác. Nhiệm vụ của nhà văn là chọn những đề tài phổ quát và trường cửu hơn, những uẩn khúc của lòng người, những bí ẩn của con tim, những xung đột giữa sự sống và cái chết, những biện pháp chế ngự nỗi thống khổ của tâm hồn, những định luật chi phối lịch sử nhân loại, những định luật phát sinh từ nghìn xưa xa thẳm và chỉ mất đi một khi mặt trời tắt đi”.
Như vậy, với tư cách là một nhà văn, A.Solzhenitsyn đã có những quan niệm rất đặc sắc và cụ thể về vai trò và sứ mệnh của văn chương và người nghệ sĩ. Chính những điều đó sẽ định hướng và chi phối toàn bộ sáng tác của ông.

2.2.
Aleksandr Solzhenitsyn không chỉ là một nhà văn lớn, ông còn là một nhà thơ, nhà viết kịch xuất sắc và hoạt động xã hội tích cực. Với những nỗ lực phi thường trong những hoàn cảnh khác nhau, ông đã để lại một khối lượng tác phẩm khá đồ sộ, đặc biệt ở thể loại văn xuôi và kịch. Có thể nói rằng, những di sản văn học mà A.Solzhenitsyn để lại rất phong phú về thể loại và đa dạng về nội dung phản ánh. Ngoài thơ, những bài báo viết từ cuối những thập niên 80 của thế kỷ XX trở đi, sáng tác của ông để lại chủ yếu ở thể loại văn xuôi (truyện ngắn, truyện vừa, tiểu thuyết), kịch, một số tiểu luận văn học và tự truyện, trong đó văn xuôi chiếm số lượng nhiều hơn cả.

- Về truyện ngắn và truyện vừa: Từ giữa những năm 40 của thế kỷ XX trở đi, A.Solzhenitsyn đã có những truyện ngắn hay đăng trên các báo và được xuất bản trong nước với số lượng gần 20 truyện lớn nhỏ khác nhau. Có thể kể một số truyện tiêu biểu như: Viên trung uý (1945), Bức thư số 254 (1946), Một ngày của Ivan Denisovich (1962), Ngôi nhà của Matriona (1963), Zakhar – Kalitta(1966); Bàn tay người kỵ sĩ… Sự xuất hiện của tác phẩm Một ngày của Ivan Denisovich là một sự kiện lớn của văn học Nga đương thời. Người góp công  cho việc xuất bản tác phẩm này là A. Tvardovski - Tổng biên tập Tạp chí Thế giới mới, và người đứng đầu nhà nước Liên Xô lúc đó là N.Khorutsov.

- Về tiểu thuyết, tiểu luận văn chương và tự truyện: Trong cuộc đời viết văn của mình, A.Solzhenitsyn để lại khoảng 6 cuốn tiểu thuyết lớn viết trong những thời gian khác nhau từ 1955 đến năm 2000. Trong số đó có một số tác phẩm đã xuất bản ở Nga, Phương Tây và được dịch ở Việt . Vòng đầu địa ngục (1955- 1964) gồm 87 chương là cuốn tiểu thuyết đầu tiên của A.Solzhenitsyn được xuất bản ở phương Tây năm 1968 và NXB Ngàn Khơi (Việt Nam) xuất bản năm 1971 do Vũ Minh Thiều dịch. Tiếp đến là Khu trại ung thư (1963 - 1967), Tháng 8 năm 14 (1969), Quần đảo Gulag (xuất bản ở Pháp 1973, ở Nga 1990, ở Việt 1974), Bánh xe đỏ (1971 - 1991) và Hai trăm năm cộng sinh (2000). Cuốn tiểu thuyết lịch sử Bánh xe đỏ (còn có phụ đề là Nhật ký một cuốn tiểu thuyết) được nhà văn viết kéo dài 20 năm gồm 10 tập tái hiện lại nước Nga trước Cách mạng tháng Mười 1917 cho đến những thập niên đầu của thế kỷ XX.

Ở thể loại tiểu luận và tự sự, A. Solzhenisyn có hai tác phẩm lớn đều được xuất bản vào những năm 70. Sống không dối trá (1975) là tập tiểu luận thể hiện những quan điểm văn chương và quan niệm sống của nhà văn. Cuốn tự truyện Bê con húc cây sồi (in năm 1975 ở Pháp và 1991 ở Nga) là một tác phẩm lớn của nhà văn ở thể loại này. Với cách nhìn của một nhà văn kết hợp giữa văn chương hiện đại với những biểu tượng mang tính ngụ ngôn Nga trong tác phẩm này, nhà văn đã tạo nên sự hấp dẫn đối với người đọc.
- Về thể loại kịch: Mặc dù không phải là thể loại được nhà văn viết thành công nhất nhưng A. Solzhenisyn cũng đã để lại khoảng 5 vở kịch (chủ yếu là bi kịch). Hầu hết những tác phẩm kịch được tác giả viết từ năm 1963 trở đi. Đó là các vở kịch: Xe tăng biết sự thật (1963-1967), Ngọn nến trước gió(1963-1967), Ánh sáng ở trong người (1963-1967), Bữa tiệc của những người chiến thắng (bi kịch thơ), Con hươu và nàng kỷ nữ của nhà tù.
Như vậy, nếu tính từ những sáng tác đầu tiên xuất hiện vào giữa thập niên 40 của thế kỷ XX cho đến những năm đầu của thế kỷ XXI, A. Solzhenisyn đã trải qua con đường sáng tác hơn nửa thế kỷ. Bằng tài năng văn chương,bằng nghị lực sống phi thường, bằng lòng dũng cảm, A. Solzhenisyn đã để lại một tài sản văn học lớn quý báu đối với nước Nga và nhân loại.

3. Những đánh giá về A. Solzhenisyn

Trong giới phê bình văn học và trong tầng lớp văn nghệ sĩ cũng như các nhà nhà lãnh đạo văn nghệ và đất nước ở nước Nga và thế giới tuy có một vài vấn đề không thống nhất, nhưng nhìn chung, tất cả họ đều cho rằng, A. Solzhenisyn là một nhà văn lớn của thế kỷ XX, một nghệ sĩ kiên cường, dũng cảm dám nói lên sự thật và chiến đấu vì sự thật. Ở ông, văn chương và con người như hoà làm một.

Nhà văn Đức được giải Nobel văn học 1972 Heinrich Boll viết: “Alexsardz Solzhenisyn đã tạo ra bước ngoặt trong nhận thức, bước ngoặt có tầm vóc quốc tế, một bước ngoặt đã tìm thấy sự hưởng ứng ở khắp nơi trên thế giới… Ông sẽ mãi mãi tồn tại trong kí ức hướng thiện của thời gian mà không chỉ trong lịch sử phát triển của nhân loại, trong lịch sử văn hoá, ông tồn tại bằng những tác phẩm của mình, những thứ không thể tách rời với nhân cách của nhà văn [1-tr 565]. Nhà phê bình văn học Nga, dịch giả và là giáo sư Đại học Sorbonne (Pháp) Nikita Struve cho rằng: “A.Solzhenisyn là nhà văn, nhà chiến lược, nhà tiên tri”. Là người phần lớn sống gần A. Solzhenisyn trong những năm sống ở nước ngoài và phụ trách xuất bản phần lớn tác phẩm của nhà văn, Nikita Struve trong một lần trả lời phỏng vấn của báo chí đã nói rằng: “Alexsardr Solzhenisyn tin tưởng vào nước Nga muôn đời với nền văn hoá vĩ đại của nó. Tôi nghĩ rằng, ảnh hưởng của ông đối với nước Nga sẽ còn tiếp tục. Ông vẫn chưa được đánh giá đầy đủ trên bình diện tinh thần. Trong một ý nghĩa nào đó, con đường của ông mới chỉ bắt đầu” (Báo Văn nghệ trẻ, số 32 ngày 1.8.2008).

Ngày A. Solzhenitsyn ra đi, thủ tướng Nga V.Putin và tổng thống Nga Đ.Metveđev là những người đầu tiên đến chia buồn cùng gia quyến nhà văn và có những đánh giá rất cao về con người và sự nghiệp văn học của ông. Tổng thống Pháp Nicolai Sarkozy, trong lời chia buồn đã nhấn mạnh rằng: “Ông (A. Solzhenitsyn) là một trong những lương tâm của nước Nga thế kỷ XX, một ngòi bút kiệt xuất kế thừa Dostoievski” (Báo Tiền Phong số 32, ngày 4-10/8 -2008). Các nhà văn Nga cũng cho rằng: “Hãy nói lớn, nói rõ ràng ở đây, chúng tôi có một nhà văn, nhà văn lớn nhất, đó là Solzhenitsyn”(Nhà văn Victor Nekrassov)”. Phải, nhà văn lớn nhất của chúng tôi là Solzhenitsyn” (nhà thơ Nga Anđrei Vozonesenski). Những lời đánh giá trên về con người và vị trí của A.Solzhenitsyn đối với văn học Nga thật to lớn.
Về phương diện sáng tác, những tác phẩm nghệ thuật của A. Solzhenitsyn  được đánh giá rất cao, khẳng định tài năng văn chương của ông. Báo Sự Thật (Nga) nhận định: “Văn trần thuật của A.Solzhenitsyn  đôi khi làm ta nhớ tới sức mạnh nghệ thuật của Tolstoi. Nền văn chương nước ta đã có thêm một tác giả với tài năng phi thường”. Khi tuyên dương tài năng văn chương của nhà văn, Ban giám khảo Viện Hàn Lâm Thuỵ Điển khẳng định: “Ngay cả hình thức phê phán mà Solzhenitsyn tìm kiếm cho tác phẩm của mình cũng minh chứng cho thông điệp của ông. Hình thức này đã được mệnh danh là tiểu thuyết đa thanh (polyphone novel) hay tiểu thuyết chiều ngang (hirizontal novel)… Đó là toàn bộ nhân tính hàm chứa trong một hạt dẻ, bởi hạt nhân của nó là tình yêu nhân loại. Giải thưởng Nobel văn chương năm nay được trao cho người đã tuyên xứng chủ nghĩa nhân văn cao cả đó”.

Từ một góc nhìn khác về giá trị nghệ thuật của văn chương của A.Solzhenitsyn, Đỗ Lai Thuý viết: “Văn chương của ông là “lời nói về sự thật” hấp dẫn bởi sự thật. Tác phẩm của ông, từ những truyện ngắn đầu tay đến những tiểu thuyết sau này thống nhất cao độ bởi một văn phong được các nhà nghiên cứu gọi là “cái nhìn đặc tả” và “sự xé vụn thời gian”, rất xa với truyền thống văn xuôi Nga thế kỷ XIX và gắn với thủ pháp “đồng hiện” của văn chương Mỹ. Sự cách tân đó hoà quyện chặt chẻ với những biểu tượng truyền thống của ngụ ngôn Nga như con hươu, cây sồi con bê… tạo nên sự hấp dẫn đặc biệt” (Từ điển văn học -Nhiều tác giả, NXB Thế giới, Hà Nội 2004, tr 2092).

Vào năm 1963 khi tác phẩm “Một ngày của Ivan Denisovich” của A.Solzhenitsyn được xuất bản, báo Sự thật thời đó viết: “Tại sao tim ta thắt lại tái tê như thế, khi ta đọc cuốn truyện khác thường mà đồng thời ta lại cảm thâý tinh thần ta bay vút lên cao? Câu cắt nghĩa nằm ở trong cái tính nhân loại sâu sắc của nó, ở trong cái phẩm chất của loài người ngay trong giờ phút băng hoại”. Đề cập đến cuốn tiểu thuyết Quần đảo Gulak, một nhà nghiên cứu phê bình Nga viết: “Trong dòng chảy của thế giới thế kỷ XX Quần đảo Gulak vẫn có một cuộc sống bền vững… Những giá trị và sức mạnh nghệ thuật chân chính của tác phẩm đã được khẳng định. Nhưng Quần  đảo Gulak lại mang một giá trị đặc biệt khác. Nó không chỉ là tiếng nói của một người đương thời thấu hiểu nỗi đau của dân tộc mà là tác phẩm của một nhà văn đã vượt qua những trở lực của xã hội, nhìn nhận tấm thảm kịch đó từ bên trong…”

A.Solzhenitsyn là một nhân cách quý hiếm đối với chúng ta. Cuộc đời hoạt động văn học và đấu tranh không mệt mỏi chống lại cái ác,bênh vực cái thiện của ông là những chiến công bất diệt. Bởi vì ông là người thiết tha xây dựng cuộc sống mới cho mọi người. Cái lớn lao của A.Solzhenitsyn với tư cách là một người nghệ sĩ,một công dân là đã nói lên sự thật,lên án cái xấu, cái ác đang tồn tại.Chính sức mạnh tinh thần và nghị lực phi thường của ông đã chiến thắng mọi trở lực. Con người và những tác phẩm của ông vẫn mãi là niềm tự hào của văn học Nga, dân tộc Nga.

H.V.L

(nguồn: TCSH số 237 - 11 - 2008)

 



------------------                      
1. Đoàn Tử Huyến và Nguyễn Thuý Hằng, Các nhà văn Nga giải thưởng Nobel, NXB Lao Động - Trung tâm văn hoá ngôn ngữ - Đông Tây, Hà Nội 2007.
2. Báo Văn nghệ số 33(16.8.2008),
Báo Văn nghệ trẻ, số 32 (10.8.2008), Báo An ninh thế giới số 8 (tháng 8.2008).

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • CAO HUY HÙNGLịch sử vốn có những ngẫu nhiên và những điều thần tình mà nhiều người trong chúng ta chưa hiểu rõ. Tỉ như: Thế giới có 2 bản Tuyên ngôn độc lập, đều có câu mở đầu giống nhau. Ngày tuyên bố tuyên ngôn trở thành ngày quốc khánh. Hai người soạn thảo Tuyên ngôn đều trở thành lãnh tụ của hai quốc gia và cả hai đều qua đời đúng vào ngày quốc khánh...

  • NGUYỄN VĂN HOA1. Tôi là người Kinh Bắc, nên khi cầm cuốn sách Văn chương cảm và luận (*) của Nguyễn Trọng Tạo là liền nhớ ngay tới bài hát Làng quan họ quê tôi của anh mà lời ca phỏng theo bài thơ Làng quan họ của nhà thơ Nguyễn Phan Hách.

  • TRẦN HUYỀN SÂMSau mười năm, kể từ khi “Cái trống thiếc” ngỗ ngược của chú lùn Oska vang lên trên đống gạch đổ nát của thế chiến II, Herta Munller đã tiếp nối Gunter Gras và vinh danh cho dân tộc Đức bởi giải Nobel 2009.

  • NGUYỄN ĐÌNH CHÍNH       (nhân Đọc "Từ những bờ hoa gió thổi về")Ông Trần Nhật Thu sinh năm 1944 ở Quảng Bình. Ông  lớn lên, làm thơ, đoạt giải thi ca cũng từ miền đất gió cát này. Năm 1978 ông rời Quảng Bình như một kẻ chạy trốn quê hương. Nhưng hơn hai chục năm nay miền quê xứ cát vẫn âm thầm đeo bám thơ ông. Qua đó lộ cảm tâm trạng ông vẫn đau đáu miền gió cát này.

  • Nhà văn Tô Nhuận Vỹ tên thật là Tô Thế Quảng, sinh ngày 25 tháng 8 năm 1941, quê ở Vinh Xuân, Phú Vang, Thừa Thiên Huế. Anh đã kinh qua các công việc: dạy học, phóng viên, biên tập viên… Anh từng giữ các chức vụ: Tổng thư ký và Chủ tịch Hội Văn nghệ Bình Trị Thiên, Tổng biên tập tạp chí Sông Hương, Giám đốc Sở Ngoại vụ, đại biểu HĐND tỉnh Thừa Thiên Huế, Uỷ viên Ban kiểm tra, Uỷ viên Hội đồng văn xuôi và Ban đối ngoại Hội Nhà văn Việt Nam.

  • ĐÔNG LAThế là sự ồn ào qua rồi. Diễn đàn đã đóng cửa. Nhưng lẽ nào việc thẩm định văn chương chỉ râm ran một hồi như thế, rồi cái nhùng nhằng còn nguyên nhùng nhằng, sự mâu thuẫn còn nguyên mâu thuẫn, và chuyện hay dở đến đâu cũng vẫn cứ mãi lửng lơ!

  • ĐÀO DUY HIỆP"Ngữ pháp, ngữ pháp khô khan chính nó, trở thành cái gì đó như một thuật phù thủy, gọi hồn; các từ sống lại, được cấp xương thịt, danh từ trong dáng vẻ tôn nghiêm bản thể của nó, tính từ, trang phục trong suốt khoác lên nó và nhuộm sắc cho nó một lớp tráng, còn động từ, thiên thần của vận động, mang lại cho câu sự động dao" (Baudelaire) (1)

  • MAI VĂN HOANMai Văn Hoan sinh 20-1-1949, quê Thanh Trạch, Bố Trạch, Quảng Bình. Anh tốt nghiệp khoa Văn, Đại học Sư phạm Vinh và từng dạy ở các trường: Cấp 3 Minh Hoá (1971-1973), Sư phạm 10+3 Quảng Bình (1973-1979), Hai Bà Trưng (1979-1985), Quốc Học (1985-2009). Anh từng tham gia bồi dưỡng hàng chục học sinh giỏi văn tỉnh Bình Trị Thiên (1979-1989), tỉnh Thừa Thiên Huế (1989-2009) đoạt giải Quốc gia. Một số học sinh của anh đã trở thành phó giáo sư, tiến sĩ, cán bộ quản lý, nhà văn, nhà báo... nhưng vẫn “mãi mãi không thể nào quên những giờ dạy văn của thầy Mai Văn Hoan” như lời chị Lương Thị Bích Ngọc tâm sự trên VietNamNet.

  • NGUYỄN HỮU NGÔ Cuốn sách đồ sộ "Côn Đảo" của Nhà xuất bản Trẻ (1996) là một nguồn tư liệu quý mà những người làm công việc nghiên cứu lịch sử cách mạng Việt Nam không thể không tìm đến. Vì vậy sự chính xác về thông tin đòi hỏi phải khẳng định. Và cũng vì vậy tôi có đôi điều xin thưa với ban biên tập Nhà xuất bản Trẻ về những thông tin về nhân vật Mai Tấn Hoàng được coi là người tử tù cách mạng.

  • VÕ THỊ QUỲNHĐặng Huy Trứ (1825 - 1874) đã để lại khá nhiều thơ văn cho đời. "Từ Thụ Yếu Quy"(*) tập sách bàn về nạn hối lộ và đức thanh liêm của người làm quan, là một trong những áng văn quý giá ấy.

  • Văn Cầm Hải tên thật Nguyễn Thanh Hải, sinh ngày 20 tháng 01 năm 1972, quê ở làng Trần Xá, Hàm Ninh, Quảng Ninh, Quảng Bình.

  • CAO HUY HÙNGBa mươi năm đã trôi qua, kể từ ngày Bác Hồ vĩnh biệt chúng ta! Người đã để lại cho toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta di sản vô cùng quí báu: Đó là bản di chúc lịch sử của thời đại Hồ Chí Minh, thời đại rực rỡ nhất trong lịch sử vinh quang hàng ngàn năm của dân tộc. Đó là kỷ nguyên độc lập dân tộc, tự do của Tổ quốc, kỷ nguyên cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội.

  • LÊ THỊ MÂYĐề tặng một giấc mơ là tập thơ hay và buồn của Lâm Thị Mỹ Dạ. Tập thơ này được giải thưởng của UBTQLH các Hội Văn học Nghệ thuật Việt Nam năm 1998. Sau khi xóa bao cấp trong in ấn thơ, rất nhiều người có cơ hội tự in thơ, có khi là mỗi năm một tập. Lâm Thị Mỹ Dạ không ở trong diện ấy.

  • ĐẶNG TIẾNPhê bình huyền thoại(1) của Đào Ngọc Chương là một cuốn sách mỏng, in giới hạn, có lẽ chỉ nhắm vào một nhóm sinh viên, nhưng là sách cần yếu, mới mẻ.

  • HỒNG NHUĐó là “Tình bậc thang” (NXB Hội Nhà văn 2006) và “Mặt cắt” (NXB Hội Nhà văn 2007) của một nữ thi sĩ mà cho đến nay không nhiều người biết đến, ít nhất là trong làng thơ. Vì một lẽ rất giản đơn: chị mới xuất hiện trên thi đàn Việt Nam vài ba năm nay thôi.

  • FAN ANHTrong cuộc sống của tất cả chúng ta, đôi khi nụ cười không đồng nghĩa với sự hạnh phúc, cũng như nước mắt không phải bao giờ cũng đồng điệu với nỗi đau. Chính vì thế, mặc dù tiểu thuyết Ba ơi, mình đi đâu? của Jean Louis Fournier là một tác phẩm có thể “gây ra” không ít những tiếng cười, nhưng cảm xúc thanh lọc (Catharsis) mà cuốn sách nhỏ này mang lại cũng lớn lao như bất kì một vở bi kịch nào.

  • Ngày 6 tháng 4 năm 2007 tại Hà Nội, chúng tôi đến thăm nhà thơ Dương Tường tại nhà riêng. Dương Tường ngồi sau một chiếc bàn nhỏ và thấp chất đầy sách vở và ly tách giữa một căn phòng rộng dùng làm phòng triển lãm tranh. Tranh treo kín các tường.

  • ĐOÀN TUẤNTrong tâm tưởng của tôi, thi sĩ Nguyễn Bính là một người có dáng gầy, vóc nhỏ, gương mặt nhẹ nhõm với đôi mắt sáng, tinh anh, mũi dọc dừa và cái miệng cân đối. Tóc Nguyễn Bính không bao giờ để dài. Áo quần Nguyễn Bính thường có màu sáng. Ông đi lại nhanh nhẹn, nhiều khi vội vã. Gương mặt Nguyễn Bính là một gương mặt ưa nhìn bởi trong đó chứa đựng chiều sâu của nhiều ý nghĩ và sắc mặt thay đổi theo tâm trạng thất thường của ông.

  • PHẠM QUANG TRUNGTôi muốn nói đến bài “ Tạm biệt” (hay “ Tạm biệt Huế”) của nhà thơ Thu Bồn. Dẫu đã có nhiều bài thơ hay, rất hay lấy cảm hứng từ Huế, tôi dám quả quyết là nó sẽ vẫn được nhắc tới như là một trong những bài thơ hay nhất. Xin kể một kỷ niệm đẹp riêng với tôi.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊNâng hợp tuyển “Hải Bằng” (HTHB) sang trọng và trĩu nặng trên tay, thật nhiều cảm xúc tràn đến với tôi. Cuốn sách được gia đình nhà thơ Hải Bằng tặng cho tất cả những người đến dự ngày giỗ lần thứ 11 của nhà thơ được tổ chức tại một ngôi nhà mới xây ở cuối đường Thanh Hải - lại là tên nhà thơ quen thuộc của xứ Huế.