PHẠM TRƯỜNG THI
Trong số các nhà thơ thời tiền chiến người quê gốc Nam Định, có ba nhà thơ mặc dù khác nhau là không được sinh ra cùng ngày, cùng tháng, cùng năm, cùng một miền đất nhưng họ lại rất giống nhau là đều khóc tiếng khóc chào đời nơi vùng đồng chiêm trũng, nghĩa là nơi được xem là những cái rốn nước của tỉnh Nam Định.
Ảnh: internet
Đó là nhà thơ Đoàn Văn Cừ sinh ra tại xã Nam Lợi, huyện Nam Trực, nhà thơ Nguyễn Bính tại xã Cộng Hòa, huyện Vụ Bản và nhà thơ Á Nam Trần Tuấn Khải tại xã Mỹ Hà, huyện Mỹ Lộc. Những địa danh đồng chiêm trũng từ lâu đã hằn sâu trong tâm thức của con người về sự đói nghèo truyền kiếp. Đất: năm hai vụ chiêm khê, mùa thối. Người: sống ngâm da, chết ngâm xương. Điều tôi muốn nói đến ở đây là những vùng đất sản sinh ra con người. Thực tế, đất nào thì đẻ ra người ấy. Địa linh thì mới có nhân kiệt. Như cách nói bây giờ là môi trường sinh thái. Môi trường sinh thái ảnh hưởng rất lớn đến đời sống mọi mặt của con người, không chỉ bởi dáng vóc, màu da, nếp sống, lối sinh hoạt hàng ngày mà sâu xa hơn là nếp nghĩ, cách tư duy trước trực quan sinh động. Cụ thể là những con người được sinh ra ở những vùng đất khắc nghiệt hầu hết đều có đức cần cù chịu khó lao động và hiếu học. Bởi chỉ có con đường học hành mới nâng cao được tri thức để vượt lên, thoát ra khỏi thực tại nghiệt ngã để kiếm tìm một cuộc sống khả dĩ tốt đẹp hơn. Ba nhà thơ mà tôi vừa nêu tên cũng không ngoại lệ. Họ đều rời quê hương bôn ba khắp chốn từ Bắc vào Nam và từ Nam ra Bắc liên miên, liên miên suốt cả cuộc đời. Và thực tế đã chứng minh dù đi đâu, ở đâu giàu có hay nghèo hèn họ đều mang nặng lối sống, nếp nghĩ của miền đất sinh thành, lòng luôn canh cánh hướng về quê hương bản quán với bờ tre, bến nước, dòng sông, con đò. Chính vì lẽ đó những hình ảnh quê quen thuộc luôn luôn xuất hiện trong thơ của họ với tần suất rất đậm đặc.
Trong ba nhà thơ “đồng chiêm” đó có lẽ nhà thơ Á Nam Trần Tuấn Khải là người mải miết nhất đối với cuộc hành trình đầy cam go, trắc trở của mình. Năm 20 tuổi ông đã rời vùng đồng chiêm trũng làng Quang Xán, huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định của mình để đến với đô thành Hà Nội rồi lang bạt khắp chốn Bắc Trung Nam. Nhưng với Trần Tuấn Khải sự ra đi không hẳn chỉ để tìm kế mưu sinh và để cho: “... phỉ chí tang bồng... ” mà lịch sử đã chứng minh sự ra đi của ông mang một ý nghĩa sâu xa hơn nhiều. Ông, một nhà nho yêu nước thương nòi khát khao muốn được truyền tải đến mọi người tấm lòng của ông, cầu mong góp một tiếng nói nhằm thức tỉnh dân tộc đang chìm trong thảm họa mất nước. Chỉ thẳng ra rằng hiện mọi người đang sống trong hòa bình đấy, nhưng là thứ hòa bình thuộc địa, bị xiềng xích, kìm kẹp với nỗi nhục làm thân nô lệ, kiếp tôi đòi của chế độ thuộc địa Pháp. Kêu gọi mọi người hãy tỉnh dậy, đến với nhau để cùng chung sức, chung lòng phá tan xiềng xích, đánh đuổi bọn giặc ngoại xâm, giải phóng đất nước.
“Ai ơi sao chẳng tìm nhau tá
Mà đỡ cho nhau gánh nợ đời”
(Nhớ ai)
Nợ đời ở đây theo ông là nợ với non sông, đất nước. Hai câu thơ này xem như là lời hiệu triệu của Á Nam Trần Tuấn Khải.
Là người được sinh ra trong một gia đình nho học truyền thống, cha của Á Nam Trần Tuấn Khải là Trần Khải Thụy đỗ cử nhân tại trường thi Nam Định. Năm 12 tuổi Á Nam đã được cụ thân sinh dạy cho biết làm đủ các thể thơ và được mẹ truyền cảm tình yêu quê hương đất nước qua những câu ca dao, tục ngữ, những làn điệu hát dân ca nơi thôn giã, khiến ông có đầy đủ vốn liếng làm hành trang vào đời.
Á Nam Trần Tuấn Khải ý thức được về trình độ học vấn cũng như tài thơ của mình và ông đã dùng nó làm phương tiện hữu hiệu chuyển tải lòng yêu nước, căm thù giặc của mình đến với mọi người. Chính Á Nam cũng đã thừa nhận: “Mượn tiếng văn chương gọi giống nòi”.
Thực tế ngay từ bài thơ đầu tiên: “Tiễn chân anh khóa xuống tàu”, từ tập thơ thứ nhất: “Duyên nợ phù sinh 1” (Xuất bản năm 1921) cho đến những bài thơ viết cuối đời, ông đã tận dụng triệt để phương tiện hết sức sắc bén này để truyền bá tinh thần yêu nước thương nòi, cổ vũ mọi người trong Nam cũng như ngoài Bắc, đồng lòng đứng lên giành lại non sông.
Như đã nói ở trên, vì xuất thân từ một vùng quê chiêm trũng nghèo đói, nhà thơ đã sống và thấu hiểu tận cùng nỗi thống khổ của người nông dân, do vậy những tác phẩm của ông được viết ra từ tình yêu thật, người thật, cảnh thật nên đã chiếm được sự đồng cảm của đông đảo công chúng và công chúng đã yêu thơ ông, mến mộ ông. Đặc biệt là đã nghe theo lời ông, chia sẻ cùng ông nỗi niềm của một người dân mất nước.
“Coi lịch sử gương kia còn tỏ
Mở dư đồ đất nọ chưa tan
Giang san này vẫn giang san
Mà nay xẻ nghé tan đàn vì ai?”
(Hai chữ nước nhà)
Á Nam Trần Tuấn Khải giỏi cả chữ Tàu và chữ Tây. Ông đã bỏ không ít thời gian nghiên cứu và thấu hiểu các trường phái, các xu hướng văn học trong cũng như ngoài nước thời đó, nhưng ông không sa đà vào câu chữ chứa đựng những triết lý bí hiểm cao siêu hay kết cấu hình thức phức tạp mà chọn một cách viết rất “nôm” thuần Việt. Bằng những vần thơ với câu chữ bình dị, gần gũi đời thường, dễ đọc, dễ thuộc và dễ quảng bá, qua những câu hát, những làn điệu dân ca, hò vè để chuyển tải tư tưởng lớn của mình đến với quảng đại quần chúng. Đây là cách chọn tốt nhất. Ông khai thác các đề tài quen thuộc về tình cha con, nghĩa vợ chồng, tình làng, nghĩa xóm, nghĩa đồng bào, lòng thủy chung nhân ái đó là nếp sống, đạo đức của dân tộc. Đặc biệt dùng các tích xưa trong việc dạy dỗ con cái, về đạo trung hiếu, các tấm gương yêu nước của các anh hùng dân tộc như Bà Trưng, Bà Triệu, Nguyễn Trãi... để lồng tư tưởng lòng yêu nước đến với người đọc. Một cách làm kín đáo, tế nhị khiến cho kẻ thù khó viện cớ bắt bẻ, gây khó dễ.
Nhà thơ Nguyễn Vỹ tâm sự, ông say xưa với dòng thơ kiểu đó của Á Nam Trần Tuấn Khải và đã học thuộc lòng nhiều bài từ nhỏ. Còn nhà thơ Xuân Diệu nói đã chép rất nhiều bài thơ của Á Nam Trần Tuấn Khải vào sổ tay và xem đó như vật quý báu dùng hàng ngày vì đó là tiếng gọi của lương tâm.
Quả là thơ của Á Nam Trần Tuấn Khải đã tác động không nhỏ và khơi dậy lòng yêu nước của nhiều tầng lớp quần chúng từ tầng lớp bình dân đến các bậc học giả trí thức. Thực dân Pháp xem Á Nam Trần Tuấn Khải là một mối họa. Chính vì thế mà chúng đã hai lần ra lệnh tịch thu và cấm lưu hành, tàng trữ thơ của Á Nam Trần Tuấn Khải. Đó là tập thơ “Bút quan hoài 1” xuất bản năm 1927 và “Chơi xuân” xuất bản năm 1932. Thực dân Pháp đã bắt giam Trần Tuấn Khải hai tháng tại nhà tù Hỏa Lò, Hà Nội với tội danh phá rối trị an, xúi dân làm loạn. Ra tù gặp cảnh tang thương: vợ chết, con nhỏ chết, nhà thơ lập gia đình mới nhưng vẫn không rời cây bút, không nhụt ý chí đấu tranh. Ông xác định với chính mình mà cho cả mọi người:
“Thời thế có anh hùng là thế
Chữ vinh hoa xá kể làm chi
Mấy trang hào kiệt xưa kia
Hi sinh thân thể cũng vì nước non”
(Hai chữ nước nhà)
Cuộc đời của Á Nam Trần Tuấn Khải là một cuộc hành trình gập ghềnh đầy gian nan vất vả, khi ra Bắc, khi vào Nam, lúc định xuất dương nhưng không thành lúc lại sa vào vòng lao lý. Lòng yêu nước đã dẫn ông nhiều lần đến gặp liên hệ với các nhà cách mạng nổi tiếng như Phan Bội Châu, Huỳnh Thúc Kháng, Đào Trinh Nhất, Hoàng Tích Chu, Trần Huy Liệu... Khi dạy học, khi làm báo, làm biên tập ở điều kiện, hoàn cảnh nào Á Nam Trần Tuấn Khải cũng không rời cây bút sáng tác thơ chuyển tải đến mọi người lòng yêu nước thương nòi. Năm 1966, ông đã cùng một số trí thức tiến bộ Sài Gòn trực tiếp ký tên vào bản kiến nghị yêu cầu chính quyền Việt Nam Cộng hòa phải trực tiếp hiệp thương với Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam để vãn hồi hòa bình cho đất nước.
Gần một thế kỷ hiến dâng trọn vẹn cuộc đời cho sự nghiệp sáng tác, Á Nam Trần Tuấn Khải đã để lại cho đời một kho tàng văn học khá khiêm tốn với: 9 tập thơ, 3 tập tiểu thuyết, 1 kịch bản, 3 tác phẩm dịch thuật. Tiếc rằng còn một số tác phẩm có giá trị khác của ông nhưng do vì chiến tranh loạn lạc bị thất thoát. Trong các loại hình nghệ thuật Á Nam Trần Tuấn Khải thường sử dụng thì thơ nổi trội hơn. Thơ là thế mạnh của ông vì đã được đông đảo công chúng ghi nhận, ngưỡng mộ và chính thơ làm nên tên tuổi của ông.
Ngay từ buổi đầu Á Nam Trần Tuấn Khải đã tâm nguyện:
“Góp cùng tiên tổ lưng bầu huyết
Gửi tới sơn hà một áng văn”
Và nhà thơ đã làm được điều đó.
P.T.T
(SHSDB36/03-2020)
NGUYỄN VĂN HOA1. Tôi là người Kinh Bắc, nên khi cầm cuốn sách Văn chương cảm và luận (*) của Nguyễn Trọng Tạo là liền nhớ ngay tới bài hát Làng quan họ quê tôi của anh mà lời ca phỏng theo bài thơ Làng quan họ của nhà thơ Nguyễn Phan Hách.
TRẦN HUYỀN SÂMSau mười năm, kể từ khi “Cái trống thiếc” ngỗ ngược của chú lùn Oska vang lên trên đống gạch đổ nát của thế chiến II, Herta Munller đã tiếp nối Gunter Gras và vinh danh cho dân tộc Đức bởi giải Nobel 2009.
NGUYỄN ĐÌNH CHÍNH (nhân Đọc "Từ những bờ hoa gió thổi về")Ông Trần Nhật Thu sinh năm 1944 ở Quảng Bình. Ông lớn lên, làm thơ, đoạt giải thi ca cũng từ miền đất gió cát này. Năm 1978 ông rời Quảng Bình như một kẻ chạy trốn quê hương. Nhưng hơn hai chục năm nay miền quê xứ cát vẫn âm thầm đeo bám thơ ông. Qua đó lộ cảm tâm trạng ông vẫn đau đáu miền gió cát này.
Nhà văn Tô Nhuận Vỹ tên thật là Tô Thế Quảng, sinh ngày 25 tháng 8 năm 1941, quê ở Vinh Xuân, Phú Vang, Thừa Thiên Huế. Anh đã kinh qua các công việc: dạy học, phóng viên, biên tập viên… Anh từng giữ các chức vụ: Tổng thư ký và Chủ tịch Hội Văn nghệ Bình Trị Thiên, Tổng biên tập tạp chí Sông Hương, Giám đốc Sở Ngoại vụ, đại biểu HĐND tỉnh Thừa Thiên Huế, Uỷ viên Ban kiểm tra, Uỷ viên Hội đồng văn xuôi và Ban đối ngoại Hội Nhà văn Việt Nam.
ĐÔNG LAThế là sự ồn ào qua rồi. Diễn đàn đã đóng cửa. Nhưng lẽ nào việc thẩm định văn chương chỉ râm ran một hồi như thế, rồi cái nhùng nhằng còn nguyên nhùng nhằng, sự mâu thuẫn còn nguyên mâu thuẫn, và chuyện hay dở đến đâu cũng vẫn cứ mãi lửng lơ!
ĐÀO DUY HIỆP"Ngữ pháp, ngữ pháp khô khan chính nó, trở thành cái gì đó như một thuật phù thủy, gọi hồn; các từ sống lại, được cấp xương thịt, danh từ trong dáng vẻ tôn nghiêm bản thể của nó, tính từ, trang phục trong suốt khoác lên nó và nhuộm sắc cho nó một lớp tráng, còn động từ, thiên thần của vận động, mang lại cho câu sự động dao" (Baudelaire) (1)
MAI VĂN HOANMai Văn Hoan sinh 20-1-1949, quê Thanh Trạch, Bố Trạch, Quảng Bình. Anh tốt nghiệp khoa Văn, Đại học Sư phạm Vinh và từng dạy ở các trường: Cấp 3 Minh Hoá (1971-1973), Sư phạm 10+3 Quảng Bình (1973-1979), Hai Bà Trưng (1979-1985), Quốc Học (1985-2009). Anh từng tham gia bồi dưỡng hàng chục học sinh giỏi văn tỉnh Bình Trị Thiên (1979-1989), tỉnh Thừa Thiên Huế (1989-2009) đoạt giải Quốc gia. Một số học sinh của anh đã trở thành phó giáo sư, tiến sĩ, cán bộ quản lý, nhà văn, nhà báo... nhưng vẫn “mãi mãi không thể nào quên những giờ dạy văn của thầy Mai Văn Hoan” như lời chị Lương Thị Bích Ngọc tâm sự trên VietNamNet.
NGUYỄN HỮU NGÔ Cuốn sách đồ sộ "Côn Đảo" của Nhà xuất bản Trẻ (1996) là một nguồn tư liệu quý mà những người làm công việc nghiên cứu lịch sử cách mạng Việt Nam không thể không tìm đến. Vì vậy sự chính xác về thông tin đòi hỏi phải khẳng định. Và cũng vì vậy tôi có đôi điều xin thưa với ban biên tập Nhà xuất bản Trẻ về những thông tin về nhân vật Mai Tấn Hoàng được coi là người tử tù cách mạng.
VÕ THỊ QUỲNHĐặng Huy Trứ (1825 - 1874) đã để lại khá nhiều thơ văn cho đời. "Từ Thụ Yếu Quy"(*) tập sách bàn về nạn hối lộ và đức thanh liêm của người làm quan, là một trong những áng văn quý giá ấy.
Văn Cầm Hải tên thật Nguyễn Thanh Hải, sinh ngày 20 tháng 01 năm 1972, quê ở làng Trần Xá, Hàm Ninh, Quảng Ninh, Quảng Bình.
CAO HUY HÙNGBa mươi năm đã trôi qua, kể từ ngày Bác Hồ vĩnh biệt chúng ta! Người đã để lại cho toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta di sản vô cùng quí báu: Đó là bản di chúc lịch sử của thời đại Hồ Chí Minh, thời đại rực rỡ nhất trong lịch sử vinh quang hàng ngàn năm của dân tộc. Đó là kỷ nguyên độc lập dân tộc, tự do của Tổ quốc, kỷ nguyên cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội.
LÊ THỊ MÂYĐề tặng một giấc mơ là tập thơ hay và buồn của Lâm Thị Mỹ Dạ. Tập thơ này được giải thưởng của UBTQLH các Hội Văn học Nghệ thuật Việt Nam năm 1998. Sau khi xóa bao cấp trong in ấn thơ, rất nhiều người có cơ hội tự in thơ, có khi là mỗi năm một tập. Lâm Thị Mỹ Dạ không ở trong diện ấy.
ĐẶNG TIẾNPhê bình huyền thoại(1) của Đào Ngọc Chương là một cuốn sách mỏng, in giới hạn, có lẽ chỉ nhắm vào một nhóm sinh viên, nhưng là sách cần yếu, mới mẻ.
HỒNG NHUĐó là “Tình bậc thang” (NXB Hội Nhà văn 2006) và “Mặt cắt” (NXB Hội Nhà văn 2007) của một nữ thi sĩ mà cho đến nay không nhiều người biết đến, ít nhất là trong làng thơ. Vì một lẽ rất giản đơn: chị mới xuất hiện trên thi đàn Việt Nam vài ba năm nay thôi.
FAN ANHTrong cuộc sống của tất cả chúng ta, đôi khi nụ cười không đồng nghĩa với sự hạnh phúc, cũng như nước mắt không phải bao giờ cũng đồng điệu với nỗi đau. Chính vì thế, mặc dù tiểu thuyết Ba ơi, mình đi đâu? của Jean Louis Fournier là một tác phẩm có thể “gây ra” không ít những tiếng cười, nhưng cảm xúc thanh lọc (Catharsis) mà cuốn sách nhỏ này mang lại cũng lớn lao như bất kì một vở bi kịch nào.
Ngày 6 tháng 4 năm 2007 tại Hà Nội, chúng tôi đến thăm nhà thơ Dương Tường tại nhà riêng. Dương Tường ngồi sau một chiếc bàn nhỏ và thấp chất đầy sách vở và ly tách giữa một căn phòng rộng dùng làm phòng triển lãm tranh. Tranh treo kín các tường.
ĐOÀN TUẤNTrong tâm tưởng của tôi, thi sĩ Nguyễn Bính là một người có dáng gầy, vóc nhỏ, gương mặt nhẹ nhõm với đôi mắt sáng, tinh anh, mũi dọc dừa và cái miệng cân đối. Tóc Nguyễn Bính không bao giờ để dài. Áo quần Nguyễn Bính thường có màu sáng. Ông đi lại nhanh nhẹn, nhiều khi vội vã. Gương mặt Nguyễn Bính là một gương mặt ưa nhìn bởi trong đó chứa đựng chiều sâu của nhiều ý nghĩ và sắc mặt thay đổi theo tâm trạng thất thường của ông.
PHẠM QUANG TRUNGTôi muốn nói đến bài “ Tạm biệt” (hay “ Tạm biệt Huế”) của nhà thơ Thu Bồn. Dẫu đã có nhiều bài thơ hay, rất hay lấy cảm hứng từ Huế, tôi dám quả quyết là nó sẽ vẫn được nhắc tới như là một trong những bài thơ hay nhất. Xin kể một kỷ niệm đẹp riêng với tôi.
NGUYỄN KHẮC PHÊNâng hợp tuyển “Hải Bằng” (HTHB) sang trọng và trĩu nặng trên tay, thật nhiều cảm xúc tràn đến với tôi. Cuốn sách được gia đình nhà thơ Hải Bằng tặng cho tất cả những người đến dự ngày giỗ lần thứ 11 của nhà thơ được tổ chức tại một ngôi nhà mới xây ở cuối đường Thanh Hải - lại là tên nhà thơ quen thuộc của xứ Huế.
TÔN PHƯƠNG LANCũng như những nhà văn mặc áo lính thuộc thế hệ đầu và tờ tạp chí Văn nghệ quân đội của họ, Trần Dần là một tên tuổi quen thuộc mà gắn với tên tuổi ông là cuốn tiểu thuyết Người người lớp lớp. Là một học sinh thành phố, khi Cách mạng tháng Tám thành công, 19 tuổi, ông bắt đầu hoạt động cách mạng rồi đầu quân tham gia kháng chiến chống Pháp và hoạt động văn nghệ.