Thơ Chiyo-ni: Độ mình độ người

14:28 07/06/2024

NHẬT CHIÊU
(Chiyo-ni: The relief offered by haiku)

Có một nghệ thuật cứu chữa, cứu thoát chúng ta trong cuộc sống bản thân trong tình trạng thương tổn, trong tâm lý và tâm linh, đó là thực tập viết thơ và đọc thơ.

Ảnh: upaya.org

Để nói được như vậy, ta hãy chọn một trường hợp cụ thể, sinh động hơn là thuyết lý trừu tượng. Và tôi nghĩ ngay đến thơ haiku Nhật Bản mà tôi khá quen thuộc và nhân dạng đẹp nhất của nó là nữ tác giả cao quý nhất trong thế giới đó, là Chiyo-ni.

Tại sao thế?

Bởi vì mọi người bình thường, từ trẻ em đến người già yếu đều có thể thực hành đọc và viết thơ haiku từ mọi nơi trên thế giới.

Bởi vì Chiyo-ni, người được xem là Bashô-nữ, có một tuệ giác haiku trong sáng bậc nhất, làm thơ từ thơ ấu cho đến cuối đời về những điều nhỏ nhoi bình thường nhất, tiếng tăm lừng lẫy nhất nhưng sống khiêm nhường, làm bạn với mọi người từ lãnh chúa đến gái điếm với tâm bao dung, rộng mở và từ ái.

Ảnh: wikipedia

Chiyo-ni (1703 - 1775) sống vào thời mà thơ haiku lưu hành nhiều đến mức chỉ đứng sau Kinh Phật. Nhà nàng ở Kaga, gần chùa. Nàng nghe tiếng chuông từ nhỏ. Gia đình có nghề làm giấy nên nàng làm quen với bút mực, thư pháp và hội họa rất sớm. Khi Chiyo-ni mất vào tuổi 72, người ta nói rằng: “Chúng ta đã mất ánh sáng trên con đường thơ haiku” (Lúc đó thể thơ này chưa gọi là haiku, vẫn còn gọi là haikai, hokku).

Thế nào mà thơ haiku, ở đây là Chiyo-ni có quyền năng cứu chữa, cứu thoát bản thân Chiyo và người khác?

Chiyo chỉ trở thành Ni (ni sư), tức là thành Chiyo-ni sau khi qua tuổi năm mươi. Hơn nữa khi đã làm ni, nàng cũng không sống trong chùa. Nàng luôn sống cuộc sống mở. Đạo của nàng là tôn giáo của một nhà thơ.

Đạo của nàng là thơ, thơ của nàng là đạo, ngay trước khi làm Ni. Vào thời Chiyo-ni, đời sống phụ nữ rất bó buộc. Nhưng làm ni hay làm gái thì có tự do hơn, ít ra là tự do đi lại và giao du. Có lẽ như nghịch lý nhưng sự thực là vậy.

Hoặc có thể nói, làm thơ đã là tự do rồi. Ở đây là làm haijin (hài nhân, tức làm nhà thơ haiku). Làm thơ thì phải thường du hành chiêm nghiệm thiên nhiên và đồng hành với nhiều nhà thơ haiku khác để trao đổi, giao du, học hỏi, để mở rộng chân trời, để trở thành mình hơn nữa, để tự độ mình.

Nhất là khi trao đổi với các bạn gái vốn trước đây là du nữ (gái làng chơi) về thơ ca, Chiyo-ni đã cứu giúp họ như thế nào.

Thơ Chiyo-ni là nước vì nó trong trẻo, dịu mát, trôi chảy tự nhiên. Chỉ cần đọc thơ ấy, gần gũi với con người ấy là tự nhiên được thanh tẩy, cứu thoát. Như thể chính nàng là Bồ Tát Cứu Thoát trong Kinh Phật.

Thơ nàng là nước. Ta thường gặp hình ảnh Nước, nguyên tố nước trong thơ nàng.

Làn nước đêm                   Mono no oto
ngấm vào âm điệu                    mizu ni izu yo ya
ôi chim đỗ quyên                      hototogisu

Chim đỗ quyên ở Nhật (hototogisu) là chim nổi tiếng hót hay hút hồn của mùa hạ. Bây giờ là dạ khúc chim bên bờ nước. Không biết tiếng nước đi vào tiếng hót hay tiếng hót đi vào tiếng nước. Hay cùng trôi vào nhau mà làm nên tiếng thơ? Cái tốt lành ấy nổi lên nhờ một hiện hữu tương liên (interbeing, nói như Thích Nhất Hạnh).

Chính tiếng chim quyên ấy đã ngấm vào tâm hồn Chiyo-ni để bật ra bài haiku giác ngộ đầu tiên của nàng:

Chim đỗ quyên                            Hototogisu
ôi đỗ quyên, đỗ quyên                          hototogisu tote
ánh hồng vừa lên                                 ake ni keri

Lần đó, tiếng quyên ca không nhập vào nước mà nhập vào rạng đông. Dù có hòa nhập, tự tính mình không hề mất đi.

Như bài thơ về chim oanh sau đây cho thấy:

Ôi chim oanh                               Uguisu ya
là chim oanh hơn nữa                          uguisu ni naru
tiếng nước thanh                                  mizu no oto

Chim oanh vừa ca hát cho nước, vừa ca hát cho mình và như vậy càng lớn lao hơn trong một bao dung thể. Oanh và nước, khoảng cách rất gần mà có thể rất xa. Triết gia Tây Ban Nha Ortega cũng có ý đó trong bài viết Dòng suối và chim oanh vàng (Streams and Orioles) chỉ ra cái hiển lộ (patent) và cái tiềm ẩn (latent) của hiện tượng.

Có thể thấy rõ hơn điều đó khi Chiyo-ni nói về nước trong (Shimizu: thanh thủy).

Trầm ngâm nước trong                 Shimizu ni wa
đâu là bề mặt                                       ura mo omote mo
đâu là bên trong                                  nakari keri

Ngắm mình trong nước trong có thể là nguy hiểm, tự đưa mình đến phức cảm Narcisse, tự yêu mình quá đáng như người ta thường hiểu về Narcisse. Nhưng triết gia Pháp Bachelard lại nghĩ khác. Narcisse hóa thành hoa thủy tiên. Chàng chính là cái đẹp. Vì hoa là cái đẹp. Cái đẹp nhìn thấy cái đẹp ở khắp mọi nơi. Đó là Le pancalisme (Phiếm mỹ luận). Đó là một Narcisse vị kỷ đã tỉnh thức, trở thành một “Narcisse bao la” (un immense Narcisse).

Trầm ngâm trong nước trong Chiyo-ni thấy nước trở nên mênh mông, không có trong ngoài, không có trước sau. Chẳng phải là tư tưởng bất nhị (Advaita) trong Kinh Phật đó sao?

Nhưng nước trong mênh mông đó có thể thu mình thành một giọt nước nhỏ đủ ôm đầy nụ hoa.

Sớm mai chiều tà             Asa yu ni
sương còn mọng giọt                shizuku no futoru
ôm đầy nụ hoa                         konome kana

Thì sao chứ - Như Phật hữu tình, Bồ Tát hữu tình - Như Hồ Xuân Hương: Giọt nước hữu tình rơi thánh thót.

Và nếu giọt nước đó rơi, phải rời cái đẹp của nụ hoa. Vẫn cứ là nước như:

Giọt sương rơi                 Koborote wa
khỏi hoa hồng phấn                moto no mizu nari
chỉ là nước thôi                        beni no tsuyu

Giọt sương tan rồi sẽ trở lại trời cùng muôn ngàn giọt sương khác làm mây làm mưa. Và lại xuống đời rửa mát, thanh tẩy mọi thứ:

Tiếng mưa trong               Ame no oto
dường như rửa mát                  arote suzushi
ve sầu cây thông                      matsu no semi

Mưa hôm nay                   Michi sugara
đường dài anh khơi bước         shimizu no tane ya
nước mùa xuân mai này           kyô no ame

Dòng nước thì trôi. Nhưng nó có thể giữ lại, ngăn lại cái mà nó muốn trong một nghịch lý lạ lùng.

Dòng nước trong vườn                 Tsuki wa
ngăn vầng trăng lại                             nagasazu niwa no
cho đừng trôi trăng                              yarimizu

Chiêm nghiệm mọi hiện tượng ấy, Chiyo-ni thâu tóm tất cả thành một vầng trăng:

Thế gian ơi                       Tsuki mo mite
đã thấy trăng rồi
                      ware wa kono yo o
xin từ biệt thôi.                         kashiku kana.

N.C
(TCSH423/05-2024)

 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • LGT:Rainer Maria Rilke (1875 – 1926) người Áo, sinh tại Praha, đã theo học tại Praha, Muenchen và Berlin triết học, nghệ thuật và văn chương, nhưng không hoàn tất. Từ 1897 ông phiêu lưu qua nhiều nước Âu châu: Nga, Worpswede (Ðức) (1900), Paris (1903) và những nước khác trong và sau thời thế chiến thư nhất (Thụy sĩ, Ý…). Ông mất tại dưỡng viện Val-Mont vì bệnh hoại huyết.

  • Giới thiệu tập thơ đầu tiên của anh Khúc ru tình nhà thơ Ngô Minh viết: “Toàn từng làm thơ đăng báo từ trước năm 1975. Hơn 20 năm sau Toàn mới in tập thơ đầu tay là cẩn trọng và trân trọng thơ lắm lắm”.

  • 1. Trước khi có cuộc “Đối thoại với Cánh đồng bất tận” trên báo Tuổi trẻ tháng 4. 2006, Nguyễn Ngọc Tư đã được bạn đọc biết đến với tập truyện ngắn Ngọn đèn không tắt, giải Nhất trong cuộc vận động sáng tác Văn học tuổi XX (lần 2) năm 2000, được tặng thưởng dành cho tác giả trẻ của Uỷ ban toàn quốc Liên hiệp các Hội văn học nghệ thuật Việt Nam năm 2000, giải B của Hội Nhà văn Việt Nam năm 2001…

  • Nhân ngày 9/5 chiến thắng phát xít Đức.

  • ...Đưa người ta không đưa qua sôngSao có tiếng sóng ở trong lòng?...

  • Những năm đầu sau ngày miền giải phóng, có mấy lần nhà thơ Xuân Diệu vào các tỉnh Nam Trung Bộ và dừng ở Nha Trang ít ngày. Đến đâu Xuân Diệu cũng nói chuyện thơ, được người nghe rất hâm mộ, đặc biệt là giới trẻ.

  • Có nhiều khi trong đời, “trôi theo cõi lòng cùng lang thang” như Thiền sư Saigyo (Nhật Bản), bất chợt thèm một ánh lửa, một vầng trăng. Soi qua hương đêm, soi qua dòng văn, soi qua từng địa chỉ... những ánh lửa nhỏ nhoi sẽ tổng hợp và trình diện hết thảy những vô biên của thế cuộc, lòng người. “Trong mắt tôi” của Hoàng Phủ Ngọc Tường đã là ánh lửa ấy, địa chỉ ấy.

  • 1. Kawabata Yasunari (1899 -1972) là một trong những nhà văn làm nên diện mạo của văn học hiện đại Nhật Bản. Ông được trao tặng giải Nobel năm 1968 (ba tác phẩm của Kawabata được giới thiệu với Viện Hoàng gia Thụy Điển để xét tặng giải thưởng là Xứ Tuyết, Ngàn cách hạc và Cố đô).

  • (Thơ Đỗ Quý Bông - Nxb Văn học, 2000)Đỗ Quý Bông chinh phục bạn hữu bằng hai câu lục bát này:Đêm ngâu lành lạnh sang canhTrở mình nghe bưởi động cành gạt mưa.

  • Thạch Quỳ là nhà thơ rất nhạy bén trong việc nắm bắt thông tin và chóng vánh tìm ra ngay bản chất đối tượng. Anh làm thơ hoàn toàn bằng mẫn cảm thiên phú. Thơ Thạch Quỳ là thứ thơ có phần nhỉnh hơn mọi lý thuyết về thơ.

  • Kỷ niệm 50 năm ngày mất nhà văn Nam Cao (30.11.1951-30.11.2001)

  • Có một con người đang ở vào cái tuổi dường như muốn giũ sạch nợ nần vay trả, trả vay, dường như chẳng bận lòng chút nào bởi những lợi danh ồn ào phiền muộn. Đó là nói theo cái nghĩa nhận dạng thông thường, tưởng như thế, nơi một con người đã qua "bát thập". Nhưng với nhà thơ Trinh Đường, nhìn như thế e tiêu cực, e sẽ làm ông giận dỗi: "Ta có sá gì đi với ở".

  • Nhà thơ Trinh Đường đã từ trần hồi 15g10’ ngày 28.9.2001 tại Hà Nội, thọ 85 tuổi. Lễ an táng nhà thơ đã được tổ chức trọng thể tại quê nhà xã Đại Lộc huyện Duy Xuyên tỉnh Quảng , theo nguyện vọng của nhà thơ trước khi nhắm mắt.

  • Phan Ngọc, như tôi biết, là người xuất thân trong gia đình Nho giáo, đã từng làm nghề dạy học, từ năm 1958 chuyển sang dịch sách, là người giỏi nhiều ngoại ngữ. Hiện nay, ông đang là chuyên viên cao cấp của Viện Đông Nam Á (Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc gia).

  • Có những con người mà ta chỉ gặp một đôi lần trong đời để rồi mãi nhớ, mãi ám ảnh về họ. Với tôi, nhà văn Trần Dần là người như vậy.

  • Trước tình hình số tập thơ được xuất bản với tốc độ chóng mặt, người ta bỗng nhiên cảm thấy e ngại mỗi khi cầm một tập thơ trên tay. E ngại, không phải vì người ta sợ nhọc sức; mà e ngại vì người ta nghĩ rằng sẽ phải đọc một tập thơ dở! Cảm giác ấy xem ra thật là bất công, nhưng thật tình nó quả là như vậy.

  • Những năm từ 1950 khi học ở trường trung học Khải Định (Quốc học Huế), tôi đã đọc một số bài thơ của Dao Ca đăng trên một số tờ báo như Đời mới, Nhân loại, Mới, Thẩm mỹ...

  • Tôi đến tìm ông vào một buổi sáng đầu đông, trong căn nhà ngập tràn bóng tre và bóng lá. Nếu không quen ắt hẳn tôi đã khá ngỡ ngàng bởi giữa phồn hoa đô hội lại có một khu vườn xanh tươi đến vậy!.

  • LTS: Rạng sáng ngày 11-7-2001, Toà soạn nhận được tin anh Đoàn Thương Hải - hội viên Hội Nhà văn Thừa Thiên Huế, sau một cơn đột quỵ, mặc dù đã được gia đình, bạn bè và các thầy thuốc Bệnh viên Trung ương Huế tận tình cứu chữa nhưng không qua khỏi, đã rời bỏ chúng ta an nhiên về bên kia thế giới!Tạp chí Sông Hương - Hội Nhà văn Thừa Thiên Huế xin có lời chia buồn sâu sắc tới gia quyến nhà văn.Sông Hương số này xin giới thiệu hai bài thơ cuối cùng của anh được rút ra từ tập thơ chép tay lưu giữ tại gia đình.TCSH

  • Thơ Đặng Huy Giang xuất hiện trên thi đàn đã nhiều năm nay; song thật sự gây ấn tượng với bạn đọc phải kể đến một vài chùm thơ mà báo Văn nghệ đăng tải trên trang thơ dự thi 1998 - 2000; đặc biệt sau đó anh cho ra mắt bạn đọc hai tập thơ một lúc: Trên mặt đất và Qua cửa.