NHẬT CHIÊU
(Chiyo-ni: The relief offered by haiku)
Có một nghệ thuật cứu chữa, cứu thoát chúng ta trong cuộc sống bản thân trong tình trạng thương tổn, trong tâm lý và tâm linh, đó là thực tập viết thơ và đọc thơ.
Ảnh: upaya.org
Để nói được như vậy, ta hãy chọn một trường hợp cụ thể, sinh động hơn là thuyết lý trừu tượng. Và tôi nghĩ ngay đến thơ haiku Nhật Bản mà tôi khá quen thuộc và nhân dạng đẹp nhất của nó là nữ tác giả cao quý nhất trong thế giới đó, là Chiyo-ni.
Tại sao thế?
Bởi vì mọi người bình thường, từ trẻ em đến người già yếu đều có thể thực hành đọc và viết thơ haiku từ mọi nơi trên thế giới.
Bởi vì Chiyo-ni, người được xem là Bashô-nữ, có một tuệ giác haiku trong sáng bậc nhất, làm thơ từ thơ ấu cho đến cuối đời về những điều nhỏ nhoi bình thường nhất, tiếng tăm lừng lẫy nhất nhưng sống khiêm nhường, làm bạn với mọi người từ lãnh chúa đến gái điếm với tâm bao dung, rộng mở và từ ái.
![]() |
Ảnh: wikipedia |
Chiyo-ni (1703 - 1775) sống vào thời mà thơ haiku lưu hành nhiều đến mức chỉ đứng sau Kinh Phật. Nhà nàng ở Kaga, gần chùa. Nàng nghe tiếng chuông từ nhỏ. Gia đình có nghề làm giấy nên nàng làm quen với bút mực, thư pháp và hội họa rất sớm. Khi Chiyo-ni mất vào tuổi 72, người ta nói rằng: “Chúng ta đã mất ánh sáng trên con đường thơ haiku” (Lúc đó thể thơ này chưa gọi là haiku, vẫn còn gọi là haikai, hokku).
Thế nào mà thơ haiku, ở đây là Chiyo-ni có quyền năng cứu chữa, cứu thoát bản thân Chiyo và người khác?
Chiyo chỉ trở thành Ni (ni sư), tức là thành Chiyo-ni sau khi qua tuổi năm mươi. Hơn nữa khi đã làm ni, nàng cũng không sống trong chùa. Nàng luôn sống cuộc sống mở. Đạo của nàng là tôn giáo của một nhà thơ.
Đạo của nàng là thơ, thơ của nàng là đạo, ngay trước khi làm Ni. Vào thời Chiyo-ni, đời sống phụ nữ rất bó buộc. Nhưng làm ni hay làm gái thì có tự do hơn, ít ra là tự do đi lại và giao du. Có lẽ như nghịch lý nhưng sự thực là vậy.
Hoặc có thể nói, làm thơ đã là tự do rồi. Ở đây là làm haijin (hài nhân, tức làm nhà thơ haiku). Làm thơ thì phải thường du hành chiêm nghiệm thiên nhiên và đồng hành với nhiều nhà thơ haiku khác để trao đổi, giao du, học hỏi, để mở rộng chân trời, để trở thành mình hơn nữa, để tự độ mình.
Nhất là khi trao đổi với các bạn gái vốn trước đây là du nữ (gái làng chơi) về thơ ca, Chiyo-ni đã cứu giúp họ như thế nào.
Thơ Chiyo-ni là nước vì nó trong trẻo, dịu mát, trôi chảy tự nhiên. Chỉ cần đọc thơ ấy, gần gũi với con người ấy là tự nhiên được thanh tẩy, cứu thoát. Như thể chính nàng là Bồ Tát Cứu Thoát trong Kinh Phật.
Thơ nàng là nước. Ta thường gặp hình ảnh Nước, nguyên tố nước trong thơ nàng.
Làn nước đêm Mono no oto
ngấm vào âm điệu mizu ni izu yo ya
ôi chim đỗ quyên hototogisu
Chim đỗ quyên ở Nhật (hototogisu) là chim nổi tiếng hót hay hút hồn của mùa hạ. Bây giờ là dạ khúc chim bên bờ nước. Không biết tiếng nước đi vào tiếng hót hay tiếng hót đi vào tiếng nước. Hay cùng trôi vào nhau mà làm nên tiếng thơ? Cái tốt lành ấy nổi lên nhờ một hiện hữu tương liên (interbeing, nói như Thích Nhất Hạnh).
Chính tiếng chim quyên ấy đã ngấm vào tâm hồn Chiyo-ni để bật ra bài haiku giác ngộ đầu tiên của nàng:
Chim đỗ quyên Hototogisu
ôi đỗ quyên, đỗ quyên hototogisu tote
ánh hồng vừa lên ake ni keri
Lần đó, tiếng quyên ca không nhập vào nước mà nhập vào rạng đông. Dù có hòa nhập, tự tính mình không hề mất đi.
Như bài thơ về chim oanh sau đây cho thấy:
Ôi chim oanh Uguisu ya
là chim oanh hơn nữa uguisu ni naru
tiếng nước thanh mizu no oto
Chim oanh vừa ca hát cho nước, vừa ca hát cho mình và như vậy càng lớn lao hơn trong một bao dung thể. Oanh và nước, khoảng cách rất gần mà có thể rất xa. Triết gia Tây Ban Nha Ortega cũng có ý đó trong bài viết Dòng suối và chim oanh vàng (Streams and Orioles) chỉ ra cái hiển lộ (patent) và cái tiềm ẩn (latent) của hiện tượng.
Có thể thấy rõ hơn điều đó khi Chiyo-ni nói về nước trong (Shimizu: thanh thủy).
Trầm ngâm nước trong Shimizu ni wa
đâu là bề mặt ura mo omote mo
đâu là bên trong nakari keri
Ngắm mình trong nước trong có thể là nguy hiểm, tự đưa mình đến phức cảm Narcisse, tự yêu mình quá đáng như người ta thường hiểu về Narcisse. Nhưng triết gia Pháp Bachelard lại nghĩ khác. Narcisse hóa thành hoa thủy tiên. Chàng chính là cái đẹp. Vì hoa là cái đẹp. Cái đẹp nhìn thấy cái đẹp ở khắp mọi nơi. Đó là Le pancalisme (Phiếm mỹ luận). Đó là một Narcisse vị kỷ đã tỉnh thức, trở thành một “Narcisse bao la” (un immense Narcisse).
Trầm ngâm trong nước trong Chiyo-ni thấy nước trở nên mênh mông, không có trong ngoài, không có trước sau. Chẳng phải là tư tưởng bất nhị (Advaita) trong Kinh Phật đó sao?
Nhưng nước trong mênh mông đó có thể thu mình thành một giọt nước nhỏ đủ ôm đầy nụ hoa.
Sớm mai chiều tà Asa yu ni
sương còn mọng giọt shizuku no futoru
ôm đầy nụ hoa konome kana
Thì sao chứ - Như Phật hữu tình, Bồ Tát hữu tình - Như Hồ Xuân Hương: Giọt nước hữu tình rơi thánh thót.
Và nếu giọt nước đó rơi, phải rời cái đẹp của nụ hoa. Vẫn cứ là nước như:
Giọt sương rơi Koborote wa
khỏi hoa hồng phấn moto no mizu nari
chỉ là nước thôi beni no tsuyu
Giọt sương tan rồi sẽ trở lại trời cùng muôn ngàn giọt sương khác làm mây làm mưa. Và lại xuống đời rửa mát, thanh tẩy mọi thứ:
Tiếng mưa trong Ame no oto
dường như rửa mát arote suzushi
ve sầu cây thông matsu no semi
Mưa hôm nay Michi sugara
đường dài anh khơi bước shimizu no tane ya
nước mùa xuân mai này kyô no ame
Dòng nước thì trôi. Nhưng nó có thể giữ lại, ngăn lại cái mà nó muốn trong một nghịch lý lạ lùng.
Dòng nước trong vườn Tsuki wa
ngăn vầng trăng lại nagasazu niwa no
cho đừng trôi trăng yarimizu
Chiêm nghiệm mọi hiện tượng ấy, Chiyo-ni thâu tóm tất cả thành một vầng trăng:
Thế gian ơi Tsuki mo mite
đã thấy trăng rồi ware wa kono yo o
xin từ biệt thôi. kashiku kana.
N.C
(TCSH423/05-2024)
NHƯ MÂY
Chiều 14/8/2016 không gian thơ nhạc bỗng trải rộng vô cùng ở Huế. Hàng trăm độc giả mến mộ thơ Du Tử Lê và bạn bè văn nghệ sĩ từ các tỉnh Kiên Giang, Đắk Lắk, Quảng Nam, Quảng Trị, Đà Nẵng, Hà Nội đã về bên sông Hương cùng hội ngộ với nhà thơ Du Tử Lê.
NGUYỄN KHẮC PHÊ
Trích Tự truyện “Số phận không định trước”
Từ ngày “chuyển ngành” thành anh “cán bộ văn nghệ” (1974), một công việc tôi thường được tham gia là “đi thực tế”.
NGÔ MINH
Nhà văn Nhất Lâm (tên thật là Đoàn Việt Lâm) hơn tôi một giáp sống, nhưng anh với tôi là hai người bạn vong niên tri kỷ.
NGUYÊN HƯƠNG
Ở Huế, cho đến hôm nay, vẫn có thể tìm thấy những con người rất lạ. Cái lạ ở đây không phải là sự dị biệt, trái khoáy oái oăm mà là sự lạ về tư duy, tâm hồn, tư tưởng. Thiên nhiên và lịch sử đã vô cùng khoản đãi để Huế trở thành một vùng đất sản sinh ra nhiều cá nhân có tầm ảnh hưởng lan tỏa. Và trong số những tên tuổi của Huế ấy, không thể không nhắc đến cái tên Thái Kim Lan.
GIÁNG VÂN
Cầm trên tay tập thơ với bìa ngoài tràn ngập những con mắt và tựa đề “Khúc lêu hêu mùa hè”(*), một cái tựa đề như để thông báo về một cuộc rong chơi không chủ đích, và vì vậy cũng không có gì quan trọng của tác giả.
PHẠM PHÚ UYÊN CHÂU - PHẠM PHÚ PHONG
Ở miền Nam trước năm 1975, những ai học đến bậc tú tài đều đã từng đọc, và cả học hoặc thậm chí là nghiền ngẫm Việt Nam văn học sử giản ước tân biên của Phạm Thế Ngũ - một trong những bộ sách giáo khoa tương đối hoàn chỉnh xuất bản ở các đô thị miền Nam, cho đến nay vẫn còn giá trị học thuật, nhất là trong thời điểm mà ngành giáo dục nước ta đang cố gắng đổi mới, trong đó có việc thay đổi sách giáo khoa.
KỶ NIỆM 50 NĂM NGÀY MẤT NHÀ THƠ NGUYỄN BÍNH (1966 - 2016)
MAI VĂN HOAN
LÊ HỒ QUANG
Nếu phải khái quát ngắn gọn về thơ của Nguyễn Đức Tùng, tôi sẽ mượn chính thơ ông để diễn tả - đấy là “nơi câu chuyện bắt đầu bằng ngôn ngữ khác”.
NGÔ MINH
Ở nước ta sách phê bình nữ quyền đang là loại sách hiếm. Câu chuyện phê bình nữ quyền bắt đầu từ tư tưởng và hoạt động các nhà phê bình nữ quyền Pháp thế kỷ XX.
PHẠM XUÂN DŨNG
(Nhân đọc cuốn sách Trước nhà có cây hoàng mai - Tập tùy bút và phóng sự về Huế - xứ sở phong rêu kiêu sa của Minh Tự, Nxb. Trẻ, TP HCM 2016)
TÔ NHUẬN VỸ
Tại Hội thảo văn học hè hàng năm của Trung tâm William Joner - WJC, nay là Viện William Joiner Institute - WJI, thuộc Đại học Massachusetts - Hoa Kỳ, nhà thơ Võ Quê đã được chính thức mời giới thiệu nghệ thuật ca Huế.
Năm 1992, trong một cuộc gặp gỡ trí thức văn nghệ sĩ ở Vinh, nhà văn Ngô Thảo nói với tôi “cụ Phan Ngọc là nhà văn hoá lớn hiện nay”, lúc này ông không còn trẻ những cũng chưa già.
LÊ THÀNH NGHỊ
Đầu năm 2002, nghĩa là sau Đổi mới khoảng mươi lăm năm, trên Tạp chí Sông Hương, có một nhà thơ nổi tiếng thế hệ các nhà thơ chống Mỹ đặt câu hỏi: Liệu Nguyễn Khoa Điềm có giai đoạn bùng nổ thứ ba của thơ mình hay không? Chắc chắn sẽ rất khó. Nhưng người đọc vẫn hy vọng*.
NGỌC BÁI
(Đọc tiểu thuyết “À BIENTÔT…” của Hiệu Constant)
HOÀNG DIỆP LẠC
Người ta biết đến Nguyễn Duy Tờ qua tập sách “Xứ Huế với văn nhân” xuất bản năm 2003, với bút danh Nguyễn Duy Từ, anh lặng lẽ viết với tư cách của một người làm ngành xuất bản.
PHẠM XUÂN NGUYÊN
Cô Kiều của Nguyễn Du từ khi xuất hiện trong văn chương Việt Nam đã nhận bao tiếng khen lời chê, khen hết lời và chê hết mực, nhưng cô vẫn sống trong niềm yêu mến của bao lớp người Việt, từ bậc thức giả đến kẻ bình dân, xưa đã vậy mà nay cũng vậy.
PHAN TRỌNG HOÀNG LINH
Bước chân vào con đường nghiên cứu văn học và hòa mình vào trào lưu lý thuyết đang trở nên thời thượng, chủ nghĩa hậu hiện đại (postmodernism), nhưng Phan Tuấn Anh không biến nó thành cái “mác” để thời thượng hóa bản thân.
PHAN ĐĂNG NHẬT
1. Sơ lược về cuộc đời và sự nghiệp Phan Đăng Lưu
Phan Đăng Lưu sinh ngày 5/5/1902, tại xã Hoa Thành, huyện Yên Thành, Nghệ An; con cụ Phan Đăng Dư và cụ bà Trần Thị Liễu.
KỶ NIỆM 70 NĂM NGÀY MẤT CỦA NHÀ THƠ BÍCH KHÊ (1946 - 2016)
PHẠM PHÚ PHONG
HỒ THẾ HÀ
Nguyên Quân song hành làm thơ và viết truyện ngắn. Ở thể loại nào, Nguyên Quân cũng tỏ ra sở trường và tâm huyết, nhưng thơ được mọi người yêu quý và ngưỡng mộ hơn.