Cuốn tiểu thuyết nổi tiếng thế giới của văn học Pháp - “Hoàng tử bé” - đã được viết nên từ trải nghiệm có thật của nhà văn khi ông bị rơi máy bay trên sa mạc Sahara khi đang trên đường bay tới Việt Nam. Tác giả đã bị mất nước, bị ảo giác và suýt mất mạng…
Cuốn tiểu thuyết “Hoàng tử bé” được xuất bản vào ngày 6/4/1943, đưa tới cho độc giả một hoàng tử bé bước ra từ tác phẩm nổi tiếng nhất của nhà văn - phi công người Pháp - Antoine de Saint-Exupéry.
Tác phẩm kể câu chuyện của một phi công bị hỏng máy bay, rơi xuống sa mạc Sahara, ở đây, người phi công đã gặp một cậu bé mà anh âu yếm gọi là “Hoàng tử bé”. Cậu bé kể cho người phi công về quê nhà của cậu - một tiểu tinh cầu.
Chi tiết này được lấy cảm hứng từ một sự việc có thật trong cuộc đời nhà văn - phi công Antoine. Ngày 30/12/1935, khoảng gần 3h chiều, sau một chuyến bay dài hơn 19 tiếng, Antoine và người bạn hoa tiêu - André Prévot - đã bị rơi máy bay ở sa mạc Sahara trên lãnh thổ Libya khi hai người đang trên đường bay tới Sài Gòn.
Họ đã cố gắng lập kỷ lục về thời gian bay từ Paris tới Sài Gòn với hy vọng giành được giải thưởng trị giá 150.000 franc. Cả Antoine và bạn đều sống sót nhưng ngay lập tức họ phải đối mặt với việc cơ thể bị mất nước nhanh chóng trên sa mạc. Nho, táo và rượu trên máy bay giúp họ trụ được một ngày, nhưng khi không còn gì nữa, hai người bắt đầu bị ảo giác.
Sang ngày thứ hai và thứ ba, cơ thể họ bị mất nước rõ rệt và không đổ mồ hôi nữa. Cuối cùng, sang ngày thứ tư, một người Ả Rập cưỡi lạc đà đã phát hiện ra họ và cứu sống cả hai.
Trong “Hoàng tử bé”, khi Antoine viết về việc bị bỏ lại trên sa mạc với một cái máy bay hỏng, ông đã liên hệ với kinh nghiệm có thật trong cuộc đời mình. Dù không thể đoạt được 150.000 franc giải thưởng, nhưng trải nghiệm “nhớ đời” ấy đã giúp Antoine viết nên một tuyệt phẩm văn chương.
Trở lại với tác phẩm, nhân vật người phi công đã gặp Hoàng tử bé khi cậu đang trong cuộc hành trình đến thăm những hành tinh khác nhau trong không gian. Cuộc gặp gỡ với người phi công giữa nơi sa mạc, trong 8 ngày, đã khiến hai người hình thành nên một tình bạn gắn bó.
Cuốn tiểu thuyết suốt hơn 70 năm nay đã hấp dẫn cả trẻ nhỏ và người lớn trên khắp thế giới, đã được dịch sang hơn 250 thứ tiếng và phương ngữ.
Trong tháng 4 này, để nhớ về ngày cách đây 73 năm, “Hoàng tử bé” đã đến với độc giả, hãy cùng điểm lại 5 bài học thú vị về cuộc đời được tác giả gửi gắm một cách đầy ngụ ý trong tác phẩm.
Hãy luôn nhớ về sự sáng tạo của tuổi thơ
Nhân vật người kể chuyện trong “Hoàng tử bé” - anh phi công bị rơi máy bay trên sa mạc - đã bắt đầu câu chuyện bằng ký ức về bức vẽ đầu đời anh thực hiện khi còn là một đứa trẻ. Bức vẽ khắc họa một con trăn đã nuốt chửng cả một con voi. Tất cả những người lớn xem tranh của cậu bé ngày ấy đều chỉ nhìn ra hình… một chiếc mũ.
Sự thất bại với bức vẽ đầu tiên và bức vẽ thứ hai khiến cậu từ bỏ niềm đam mê vẽ để chăm chỉ học những môn hữu ích như người lớn khuyên bảo. Đương nhiên từng lời văn trong “Hoàng tử bé” đều có tính đa nghĩa, để phù hợp với cả trẻ nhỏ và người lớn. Với người lớn, những câu chữ giản đơn lại khái quát nên những câu chuyện lớn lao và sâu sắc về cuộc đời.
Cho tới một ngày khi gặp được Hoàng tử bé - người đã ngay lập tức đọc ra đúng nội dung của bức vẽ năm xưa, anh phi công ngay lập tức say mê cậu như một người bạn tâm giao tri kỷ hiểu thấu cõi lòng mình.
“Mỗi khi gặp một người lớn có vẻ sáng sủa một tí, tôi lại thử người đó với bức phác thảo số một mà tôi luôn mang theo (khắc họa một con trăn nuốt trọn một con voi vào bụng). Nhưng dù người đó là ai, họ cũng luôn trả lời rằng: “Đấy là một cái mũ”. Thế là tôi chẳng bao giờ nói với họ về trăn rắn, rừng nguyên sinh hay các vì sao. Tôi sẽ tự hạ mình xuống ngang tầm họ. Tôi sẽ nói về chơi bài, chơi gôn, chính trị và ca-vát. Rồi người lớn kia sẽ cảm thấy rất hài lòng khi được quen một con người tinh tế đến vậy”.
Khi chúng ta trưởng thành, đừng để mất đi sự sáng tạo, thậm chí là sức tưởng tượng điên rồ của tuổi thơ. Người lớn luôn thích những con số, những ý tưởng thực tế, và đôi khi, họ quên mất rằng cần phải nhìn lên trên bề mặt của sự việc, để suy nghĩ tự do và sáng tạo. Họ mất đi sự tò mò, hiếu kỳ tích cực, thay vào đó, càng lúc càng trở nên tiêu cực.
Những người sáng tạo cũng giống như Hoàng tử bé, họ cũng hay mơ mộng, luôn kiếm tìm những trải nghiệm mới và luôn thích thú với việc đưa ra những câu hỏi thực sự thông minh, đánh trúng vấn đề.
Để tận hưởng niềm vui giản dị trong cuộc sống, cần bớt đi sự nghiêm nghị
Trong chuyến hành trình đến thăm các hành tinh, Hoàng tử bé có lần gặp một nhà doanh nghiệp nghiêm nghị. Người đàn ông này không ngừng đếm tất cả những ngôi sao trong dải ngân hà và cảm thấy vô cùng hạnh phúc vì sở hữu những ngôi sao đó, dù thực tế, cuộc sống của ông ta cô đơn và nhàm tẻ vô cùng, ông ta chẳng có gì ngoài những vì sao để đếm.
“Ta quản lý chúng. Ta đếm đi rồi ta đếm lại chúng, nhà doanh nghiệp nói. Khó đấy. Nhưng ta là một người đứng đắn, rất quan tâm đến những vấn đề trọng đại”.
Hãy nhìn người doanh nhân, và nhớ rằng đừng bao giờ thỏa hiệp với bất cứ việc gì có thể làm mất đi những niềm vui nhỏ giản dị trong cuộc sống của bạn.
Chẳng gì có thể lên tinh thần và cải thiện cuộc sống bằng tiếng cười - những tiếng cười sảng khoái, vô tư, vui vẻ thật sự. Đừng “hà tiện” nụ cười, cười nhiều và bạn sẽ có trí nhớ tốt, bớt căng thẳng; hài hước và bạn sẽ khó có thể mắc bệnh tim.
Dành thời gian cho bản thân là bí quyết để được hạnh phúc
Trên hành tinh thứ năm mà Hoàng tử bé ghé qua, cậu đã gặp một người thắp đèn. Ở đây, mỗi ngày chỉ kéo dài một phút. Người thắp đèn, vì vậy, phải tắt đèn rồi thắp đèn liên tục sau mỗi phút. Công việc khiến ông mệt mỏi và lúc nào cũng chỉ thèm ngủ.
“Hiện nay, hành tinh này quay mỗi phút một vòng, ta không còn lấy một giây để nghỉ ngơi. Mỗi phút ta phải thắp đèn và phải tắt đèn một lần” - người thắp đèn nói.
Đừng để công việc đè bẹp bạn đến mức khiến từng phút giây tồn tại đều trở nên mệt mỏi, mỗi phút giây sống trong cuộc đời này đều cần phải được trân trọng và mục tiêu cao nhất không gì hơn là tận hưởng cuộc sống một cách trọn vẹn, ý nghĩa nhất.
Đừng để mình “chết mòn” vì công việc giống như người thắp đèn, bởi hậu quả sẽ rất thực tế và tàn khốc, đó là hàng loạt những loại bệnh tật rình rập bạn theo năm tháng.
Quan trọng hơn cả việc chăm sóc thể chất, là đôi khi, bạn cần có thời gian để dành riêng cho chính mình, để ngắt mình ra khỏi công việc, đó chính là chăm sóc tinh thần. Không nghi ngờ gì trong thời đại hôm nay, đang có rất nhiều “người thắp đèn” giữa đời sống.
Hãy dũng cảm để bước ra khám phá thế giới
Trên hành tinh thứ 6, Hoàng tử bé gặp một “ông cụ già đang viết những cuốn sách dày cộp”. Thoạt tiên Hoàng tử bé tin rằng nhà địa lý (nghề nghiệp của ông cụ) hẳn phải là người đi đây đó rất nhiều, nhưng hóa ra ông cụ cả đời không bao giờ rời gót khỏi bốn chân bàn.
“Ta có là nhà thám hiểm đâu… Nhà địa lý không phải là người đi đến các thành phố, sông biển, núi non, đại dương và sa mạc. Nhà địa lý rất quan trọng nên họ không thể đi lung tung. Ông ta sẽ không rời bàn giấy của mình, nhưng sẽ tiếp các nhà thám hiểm. Ông ta sẽ phỏng vấn họ và ghi chép lại những hồi ức của họ” - nhà địa lý nói.
Cái bàn giấy của nhà địa lý là một ẩn dụ cho “vùng an toàn” trong cuộc sống mỗi người. Chúng ta thường có xu hướng yên vị trong “vùng an toàn” của mình bởi điều này luôn đơn giản hơn so với việc mạo hiểm. Nhưng trong cuộc đời, tất cả chúng ta đều cần phải mạo hiểm, tạo nên những trải nghiệm mới, gặp gỡ những con người mới, ngao du, tìm hiểu.
Có rất nhiều lý do để chúng ta bước ra khỏi “vùng an toàn” của mình. Sự lo lắng, hồi hộp mà chúng ta cảm thấy khi đối diện với thử thách có thể khiến chúng ta tư duy, hành động hiệu quả hơn. Thích nghi với những thay đổi, thách thức giúp chúng ta năng động, nhạy bén, không bị chây ì, chậm chạp theo năm tháng.
Hãy lựa chọn bằng trái tim mình
Hoàng tử bé đã đem lòng yêu một đóa hồng ở tiểu hành tinh quê nhà. Dù nàng bảo mình là duy nhất trong giống loài của mình, nhưng khi đặt chân tới Trái đất, Hoàng tử bé đã giật mình thất vọng khi đứng trước một vườn hồng có tới hàng nghìn đóa hồng giống hệt nàng. Thoạt tiên, Hoàng tử bé buồn bã nhưng sau khi gặp cáo, cậu đã hiểu rằng đóa hồng của mình đúng là duy nhất.
Đơn giản bởi “chính vì nàng mà tay tôi đã tưới, chính vì nàng mà tôi đã che chắn bằng tấm bình phong, cũng vì nàng mà tôi bắt từng con sâu, vì nàng mà tôi đã ngồi nghe than thở, tán hươu tán vượn, và đôi khi cả im lặng nữa, bởi vì nàng là đoá hồng của tôi”, vì vậy, đó là đóa hồng duy nhất đối với Hoàng tử bé. “Chính thời giờ cậu đã mất để chăm sóc cho đoá hồng khiến đoá hồng trở nên quan trọng đến thế”.
“Đây là bí mật của tớ, một bí mật rất đơn giản thôi: Người ta chỉ có thể nhìn thấy thật rõ ràng và đúng đắn bằng trái tim, những điều quan trọng nhất không thể nhìn thấy bằng đôi mắt” - Cáo nói.
Trong cuộc sống, nhiều khi những quyết định mang tính trực giác, bản năng lại đem tới những kết quả tốt hơn sự phân tích logic. Thực tế, trực giác không mông lung, vô định, nó tồn tại để giúp con người cân bằng các quyết định của mình, để kết nối bản năng và lý trí.
Cuốn “Hoàng tử bé” chứa đựng vô số những bài học giá trị về cuộc đời. Để biết được thêm nhiều nữa, chỉ có cách tự bạn tìm gặp cậu ấy trong cuốn tiểu thuyết vẫn còn đang thịnh hành trên khắp thế giới sau hơn nửa thế kỷ.
Theo Bích Ngọc - Dân Trí
1. Trung tâm văn hóa tôi muốn đề cập ở đây là thành phố Huế của tỉnh Thừa Thiên Huế. Đã là một Trung tâm văn hóa thì bao giờ cũng quy tụ nhiều nhân tài lớn, trên nhiều lĩnh vực, từ mọi miền đất nước, thậm chí từ cả ngoài nước, trải qua nhiều thế hệ, nhiều thử thách khó khăn mới vun đắp lên nổi một truyền thống, mà có được truyền thống văn hóa lại càng khó khăn hơn. Trong bài viết này tôi chưa đề cập tới những nhà khoa học, những nhà văn hóa và văn nghệ sĩ xuất sắc đang sống và hoạt động tại Thừa Thiên Huế, mà tôi chỉ muốn nói tới chủ yếu các vị đã qua đời nhưng đã để lại dấu ấn sâu đậm, lâu dài cho mảnh đất này, góp phần quan trọng hình thành nên truyền thống văn hóa Huế.
Trên thế giới có nhiều nền văn hóa khác nhau. Trong mỗi nước, ngoài mẫu số chung về nền văn hóa của cả dân tộc, còn có văn hóa vùng miền được phân định căn cứ vào đặc điểm nhân văn riêng của từng nơi. Nơi nào có được tính cách nhân văn đặc thù thì nơi ấy có văn hóa địa phương hay văn hóa bản địa. Một từ mà các nhà văn hóa học năng sử dụng khi đề cập đến lĩnh vực này là “bản sắc”. Nếu dùng từ bản sắc làm tiêu chí để nhận diện văn hóa thì Việt Nam có nền văn hóa riêng của mình, trong đó có văn hóa Huế.
Tôi quê Hà Tĩnh, nhưng lại sinh ra ở Huế, khi ông cụ tôi ngồi ghế Phủ Doãn, tức là “sếp” cái cơ quan đóng bên bờ sông Hương ở giữa Bệnh viện Trung ương Huế và Trường Hai Bà Trưng - Đồng Khánh xưa, nay đang được xây dựng to đẹp đàng hoàng gấp nhiều lần ngày trước. (Thời Nguyễn phong kiến lạc hậu, nhưng lại có quy chế chỉ những người đậu đạt cao và thường là người ngoại tỉnh mới được ngồi ghế Phủ Doãn để vừa có uy tín, học thức đối thoại được với quan chức trong Triều, vừa tránh tệ bênh che hay cho người bà con họ hàng chiếm giữ những chức vụ béo bở. Nói dài dòng một chút như thế vì nhiều bạn trẻ thời nay không biết “Phủ Doãn” là chức gì; gọi là “Tỉnh trưởng” cũng không thật đúng vì chức Phủ Doãn “oai” hơn, do Huế là kinh đô, tuy quyền hành thực sự người Pháp nắm hầu hết).
*Từ tâm thức kính sợ trời đất đến lễ tế Giao: Từ buổi bình minh của nhân loại, thiên nhiên hoang sơ rộng lớn và đầy bất trắc, với những hiện tượng lạ kỳ mưa gió, lũ lụt, sấm chớp, bão tố... đã gieo vào lòng người nhiều ấn tượng hãi hùng, lo sợ. Bắt nguồn từ đó, dần dần trong lịch sử đã hình thành tập tục thờ trời, thờ đất, thờ thần linh ma quỷ. Đó là nơi trú ẩn tạo cảm giác an toàn cho con người thuở sơ khai. Ở phương Đông, tập tục thờ cúng trời đất, thần linh gắn liền với việc thờ cúng tổ tiên, ông bà, phổ biến từ trong gia đình đến thôn xóm, làng xã. Khi chế độ quân chủ hình thành, một số triều đình đã xây dựng những “điển lệ” quy định việc thờ cúng trời đất, thần linh, với những nghi thức trang trọng, vừa biểu thị quyền uy tối thượng của nhà vua, vừa thể hiện khát vọng mong cầu quốc thái dân an, thiên hạ thái bình, phong hoà vũ thuận của muôn dân.
Sông Hương thuộc loại nhỏ của Việt Nam, nhưng với Thừa Thiên Huế có thể nói là “tất cả”. Hệ thống sông Hương cung cấp nước, tạo môi trường để phát triển gần như toàn bộ nền kinh tế - xã hội của Thừa Thiên Huế, đặc biệt sông Hương còn là biểu tượng của Huế, hai bên bờ mang nặng di sản văn hoá nhân loại. Nhưng đồng thời nó cũng đưa lại những trận lụt lớn vào mùa mưa, nhiễm mặn vào mùa hè...
Huế được Chính phủ xác định là một trong 5 thành phố cấp quốc gia, nằm trong khu vực kinh tế trọng điểm của miền Trung, cơ cấu kinh tế từng bước chuyển dịch theo hướng công nghiệp, dịch vụ du lịch. Quá trình phát triển đô thị, Huế đồng thời cũng đứng trước những thử thách mới, còn nhiều bất cập nhưng Huế vẫn giữ được nét kiến trúc riêng. Hình ảnh một thành phố mà kiến trúc và thiên nhiên hoà quyện, phải chăng đó là bản sắc Huế, khó trộn lẫn với bất kỳ một đô thị nào khác trong cả nước.
I. Toàn cầu hóa và lý luận văn học: I.1. “Toàn cầu hóa” làm cho “thế giới trở nên phẳng” (Thomas F.Fredman). Lý luận văn học là một lĩnh vực khoa học nhằm cắt nghĩa, lý giải, khái quát văn chương, đặt trong khung cảnh đó, nó cũng được “thế giới hóa”, tính toàn cầu hóa này tạo nên một mặt bằng chung, hình thành một ngôn ngữ chung. Từ đó mới có sự đối thoại, tiếp biến học hỏi lẫn nhau giữa các nền lý luận của các châu lục, quốc gia tạo nên một thể thống nhất trong đa dạng.
Đêm Nguyên tiêu 15 tháng giêng Quý Mùi 2003, thực hiện chủ trương của Hội Nhà văn Việt Nam, Hội Văn học Nghệ thuật Thừa Thiên Huế, Chi hội Nhà văn Việt Nam tại TTH đã tổ chức trên sông Hương một đêm thơ rất tuyệt vời. Ban tổ chức cho biết Hội Nhà văn Việt Nam đã được phép quyết định kể từ năm nay lấy ngày 15 tháng giêng âm lịch hằng năm làm Ngày Thơ Việt Nam. Quyết định ấy lay động tâm trí tôi vốn đang ưu tư với Huế Thành phố Festival, thay vì đọc thơ, trong đêm Nguyên tiêu ấy tôi đã phác họa sơ lược về một Festival thơ. Không ngờ ý kiến của tôi được Đêm thơ Nguyên tiêu hưởng ứng và các nhà thơ đã đề nghị tôi nên thực hiện một Hồ sơ cho Festival Thơ.
Trí thức trong bất cứ thời đại nào và ở đâu cũng là một nguồn lực quan trọng, là sức mạnh tinh thần nối kết truyền thống của dân tộc với thành tựu trí tuệ của thời đại. Khi nguồn lực trí tuệ của đội ngũ trí thức gắn kết được với sức mạnh cộng đồng thì xã hội sẽ có những chuyển biến tích cực. Ngược lại, nguồn lực trí tuệ không được phát huy thì năng lực phát triển của xã hội sẽ bị suy thoái. Thừa Thiên Huế có một thời là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hoá của Đàng Trong và trở thành kinh đô của cả nước. Vì thế Huế đã từng là nơi hội tụ nhiều thế hệ trí thức tinh hoa của đất nuớc. Lớp trí thức lớn lên tại Thừa Thiên Huế có điều kiện tiếp cận với những thiết chế và sinh hoạt văn hoá, học thuật có tầm cở quốc gia (Quốc Tử Giám, Quốc Sử Quán, Hàn Lâm Viện, Thái Y Viện. Khâm Thiên Giám.. ), năng lực trí tuệ của trí thức ở kinh kỳ có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển, cả trên lĩnh vực tư duy sáng tạo và quản lý, thực hành.
I. Sự hình thành và phát triển hệ thống đường phố ở Huế: Trước khi Huế được chọn để xây dựng kinh đô của nước Việt Nam thống nhất, đất Phú Xuân - Huế kể từ năm 1738 đã là nơi đóng đô thành văn vật của xứ Đàng Trong dưới thời chúa Nguyễn Phúc Khoát. Rồi Phú Xuân lại trở thành kinh đô Đại Việt của nhà Tây Sơn. Năm 1802, Nguyễn Phúc Ánh toàn thắng quân Tây Sơn; từ Thăng Long ông trở về Phú Xuân, chọn lại đất ấy, lấy ngày lành, lên ngôi vua, xưng hiệu là Gia Long. Tháng 5 năm 1803, nhà vua sai người ra ngoài bốn mặt thành Phú Xuân, xem xét thực địa, định giới hạn để xây dựng kinh thành mới. Trên cơ sở mặt bằng thành Phú Xuân cũ, lấy thêm phần đất của 8 làng cổ lân cận, mở rộng diện tích để xây dựng nên một kinh thành rộng lớn hơn trước. Cùng với việc xây dựng thành quách, cung điện, nha lại, sở ty... thì đường sá trong kinh thành cũng được thiết lập.
Thừa Thiên Huế là thủ phủ Đàng Trong thời các chúa Nguyễn, là kinh đô của cả nước dưới thời Tây Sơn và triều Nguyễn, nay là cố đô, một trong những trung tâm văn hoá và du lịch quan trọng của Việt Nam , trải qua quá trình đô thị hoá, vừa mang dấu ấn của một đô thị cổ phương Đông, vừa có đặc trưng của một đô thị mới. Để góp phần định hướng phát triển và tổ chức quản lý vùng đất nầy, một trong những việc cần làm là nên soát xét lại kết quả của quá trình đô thị hóa để lựa chọn những giải pháp quản lý phù hợp.
Trong quá khứ, mảnh đất Phú Xuân - Huế đã được chọn để đóng đô thành của các chúa Nguyễn ở Đàng Trong, rồi đến kinh đô Đại Việt của nhà Tây Sơn Nguyễn Huệ, sau nữa là kinh đô Việt Nam thống nhất dưới thời họ Nguyễn Phúc trị vì và cuối cùng trở thành cố đô từ sau Cách mạng Tháng 8.1945. Huế đã và đang là thành phố Festival - một thành phố lễ hội mang nhiều thành tố văn hóa đặc trưng của Việt Nam theo một quy chế đặc biệt. Để có cái nhìn khách quan về lịch sử, thiết nghĩ, chúng ta hãy điểm lại vài nét quá trình đi lên của thành phố Huế để trở thành đô thị loại I - đô thị đặc biệt hôm nay.
Hội nghị cán bộ Việt Minh mở rộng vào cuối tháng 4 đầu tháng 5/1945 diễn ra trên đầm Cầu Hai đề ra chủ trương lớn để phát triển phong trào cách mạng tỉnh Thừa Thiên Huế, chuẩn bị cùng cả nước khởi nghĩa cướp chính quyền khi có thời cơ. Sau hội nghị, phong trào cách mạng phát triển đều khắp trong toàn tỉnh. Đầu tháng 8, được tin quân đội Nhật bị quân đồng minh đánh bại ở nhiều nơi, nhất là ở Mãn Châu Trung Quốc, Thường vụ Việt Minh dự đoán ngày Nhật theo chân phát xít Đức bị đánh bại không còn xa, đã quyết định đẩy mạnh chuẩn bị khởi nghĩa. Giữa tháng 8 được tin Nhật Hoàng sẵn sàng đầu hàng, Thường vụ Việt Minh chỉ đạo các huyện khởi nghĩa. Sau khi tất cả các huyện phụ cận Huế khởi nghĩa thành công, ngày 20/8 Thường vụ Việt Minh triệu tập 6 huyện bàn quyết định chọn ngày 23.8.1945 là ngày khởi nghĩa giành chính quyền. Cũng ngay chiều ngày 20.8.1945 phái đoàn Trung ương có cụ Hồ Tùng Mậu, anh Nguyễn Duy Trinh và anh Tố Hữu đã đến Huế, vì Huế là thủ đô của chính quyền bù nhìn lúc bấy giờ. Khởi nghĩa ở Huế mang sắc thái đặc biệt có tính chất quốc gia. Ta giành lại chính quyền không phải từ tay một tỉnh trưởng mà là từ triều đình nhà Nguyễn - Bảo Đại ông vua cuối cùng, bên cạnh Bảo Đại lại có cả bộ máy chính quyền Trần Trọng Kim do Nhật lập ra. May mắn thay đoàn phái bộ Trung ương vào kịp thời nên vẫn giữ nguyên ngày khởi nghĩa (23.8.1945). Đêm 20.8.1945 cuộc họp của phái đoàn Trung ương và Thường vụ Tỉnh ủy thông qua kế hoạch khởi nghĩa của tỉnh và cử ra Ủy ban khởi nghĩa gồm có: anh Tố hữu là Chủ tịch đại diện cho Trung ương, tôi làm Phó Chủ tịch (PCT) đại diện cho Đảng bộ và Mặt trận Việt Minh địa phương cùng một số ủy viên: Lê Tự Đồng, Lê Khánh Khang, Hoàng Phương Thảo, Nguyễn Sơn...
Ba mươi năm trước, cùng với lực lượng cách mạng, những người làm Báo Cờ Giải Phóng của Đảng bộ Thừa Thiên Huế sôi nổi chuẩn bị số báo đặc biệt và có mặt trong đoàn quân tiến về giải phóng quê hương. Tháng 10/1974, chúng tôi được tham gia hội nghị Tỉnh ủy mở rộng bàn về đẩy mạnh nhiệm vụ đánh kế hoạch bình định, mở rộng vùng giải phóng nông thôn đồng bằng, phối hợp có hiệu quả với các chiến trường, góp phần giải phóng miền Nam, Thường vụ Tỉnh ủy giao nhiệm vụ cho Báo Cờ Giải Phóng ra số báo đặc biệt, nội dung phong phú, hình thức hấp dẫn để chuyển tải khí thế cách mạng miền Nam và trong tỉnh, đưa mệnh lệnh, lời kêu gọi của Mặt trận Dân tộc Giải phóng Thừa Thiên Huế và các chính sách của Mặt trận đối với vùng giải phóng.
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước vĩ đại của dân tộc, lực lượng an ninh huyện Phú Vang đã nêu cao chủ nghĩa anh hùng cách mạng, với 95 thương binh, 135 liệt sĩ và không có một cán bộ, chiến sĩ nào đầu hàng phản bội, lực lượng an ninh huyện Phú Vang và 4 cán bộ an ninh huyện đã được Đảng, Nhà nước phong tặng danh hiệu cao quý “Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân”.
Trong mọi thời đại Hoàng đế và kẻ sĩ có mối quan hệ đặc biệt. Đó là mối quan hệ giữa người cầm quyền và người trí thức có nhân cách và tài năng. Khi Hoàng đế là minh quân thì thu phục được nhiều kẻ sĩ, khi Hoàng đế là hôn quân thì chỉ có bọn xu nịnh bất tài trục lợi bên mình còn kẻ sĩ bị gạt ra ngoài thậm chí có khi bị giết hại. Lịch sử bao triều đại đã chứng minh điều đó. Mối quan hệ giữa Hoàng đế Quang Trung Nguyễn Huệ và La Sơn Phu tử Nguyễn Thiếp của thế kỷ XVIII là cuộc hội ngộ lớn, mang đến nhiều lợi ích cho quốc gia và có ý nghĩa cho muôn đời. Nguyễn Huệ và Nguyễn Thiếp đều sống trong bối cảnh triều Lê suy tàn, chúa Trịnh lộng hành, chúa Nguyễn mới nổi dậy. Sau gần 300 năm hết nội chiến Lê Mạc đến Trịnh Nguyễn phân tranh đời sống nhân dân vô cùng khốn khổ. Trong bối cảnh đó Nguyễn Huệ cùng anh là Nguyễn Nhạc dựng cờ khởi nghĩa, Nguyễn Thiếp cáo quan về ở ẩn.
Năm 2008 là một năm khá kỳ lạ và đặc biệt của loài người. Nửa năm đầu, cả nhân loại thăng hoa với các chỉ số chi tiêu mà ngay cả các chiến lược gia kinh tế cũng phải bàng hoàng. Nửa năm cuối, quả bóng phát triển, ổn định bị lưỡi dao oan nghiệt của khủng hoảng đâm thủng nhanh đến nỗi hàng ngàn đại gia bị phá sản rồi, vẫn chưa lý giải nổi hai chữ “tại sao”. Bất ổn và đổi thay còn chóng mặt hơn cả sự thay đổi của những đám mây. Không phải ngẫu nhiên mà người Nhật lại chọn từ “thay đổi” (kanji) là từ của năm, vì B. Obama đã chiến thắng đối thủ bằng chính từ này (change)...
Bạn đọc thân mến! Hiệp hội Đo lường Thời gian quốc tế đã quyết định kéo dài thời gian của năm 2008 thêm 1 giây, và chúng ta đã chờ thêm 1 giây để đón chào năm mới. Sau thời khắc 23 giờ 59 phút 59 giây của ngày 31.12.2008, không phải là giây đầu tiên của năm mới mà phải sau thời khắc 23 giờ 59 phút 60 giây cùng ngày, năm 2009 - năm lẻ cuối cùng của thế kỷ 21, mới chính thức bắt đầu. Nhân loại đã có thêm một giây để nhìn lại năm cũ và bước sang năm mới. Và trong một giây thiêng liêng ấy, chắc chắn nhiều ý tưởng sáng tạo đã xuất hiện, nhiều tác phẩm nghệ thuật vừa hoàn tất, âm tiết cuối của câu thơ cuối một bài thơ vừa được nhà thơ viết xong và buông bút mãn nguyện. Cùng với ly rượu vang sóng sánh chúc mừng năm mới được nâng lên, cái đẹp, cái cao cả tiếp tục xuất hiện để phụng sự nhân loại và chắc chắn, những nụ hôn của tình yêu thương đã kéo dài thêm một giây đầy thiêng liêng để dư vị hạnh phúc còn vương mãi trên môi người.
Tham luận tại cuộc tọa đàm “Văn học trẻ Huế- nhìn lại và phát triển” của nhà thơ trẻ Lê Vĩnh Thái: "một lần ngồi uống cà phê tôi được một nhà thơ, người anh trong Hội thống kê về đội ngũ sáng tác trẻ nữ của cố đô Huế chỉ có vỏn vẹn chưa đầy 5 người mà tuổi đã ngoài 30, còn tuổi từ 20, 25 đến 30 thì không thấy!?... "
Từ cuối tháng 6. 2008, trên mạng Internet, cùng lúc có những bài viết về nhiều nhà văn, nhà thơ ở Huế như Hoàng Phủ Ngọc Tường, Nguyễn Đắc Xuân, Nguyễn Khoa Điềm, Trần Vàng Sao, Tô Nhuận Vỹ và ở Quảng Trị, Quảng Bình. Các bài viết được đăng tải trên các báo điện tử nước ngoài (hoặc sách in ra được các tờ báo đó đưa lên mạng), cả trên tờ báo của một tổ chức chống nhà nước Việt Nam cực đoan nhất, và trên blogs của một số nhà văn trong nước (được một số báo điện tử nước ngoài nối mạng sau đó). Mục đích khác nhau nhưng các bài đó, tạm xếp vào hai loại, có một điểm giống nhau: DỰNG ĐỨNG những sự kiện của cuộc đời và hoạt động của các nhà văn nhà thơ này.