NGUYỄN KHẮC PHÊ
Ảnh: tư liệu
Nhà thơ, người anh hùng dân tộc Nguyễn Trãi, với vụ án oan thảm khốc Lệ Chi viên xảy ra cách đây hơn 5 thế kỷ đã từng là đề tài cho rất nhiều tác phẩm văn học, sân khấu, nhưng có lẽ “Vạn Xuân” là tác phẩm đồ sộ nhất, phong phú và sâu sắc nhất. Nhà thơ Huy Cận, từ năm 1992 sau khi đọc nguyên bản “VẠN XUÂN” (Dix mille printemps) của Yveline Feray đã viết: “...Có ngờ đâu một nữ sĩ Pháp, cách xa Nguyễn Trãi hơn 5 thế kỷ và hơn vạn dặm đường, lại đã phục hiện cuộc đời và sự nghiệp của Nguyễn Trãi, tâm trạng và tâm tình của Nguyễn Trãi với một sự hiểu thấu tâm lý sâu sắc như vậy. Không chỉ có chân dung của vị anh hùng, của nhà thơ vĩ đại, mà còn có bức tranh toàn cảnh của thời thế. Vạn Xuân quả thật là một bản anh hùng ca lớn về nền văn hiến Đại Việt đầy khí phách và nhân hậu...” (Trích lời giới thiệu “Vạn Xuân” - NXB Văn học & Sudestasie).
![]() |
Bản in lại đầy đủ - Ảnh tư liệu (SH) |
Được biết tác giả đã bỏ công sức trong 9 năm trời (1980-1988) để hoàn thành bộ sách đồ sộ dày trên 1200 trang này và đến nay, vừa đúng 10 năm sau khi ra đời. “Vạn Xuân” đã đến với độc giả Việt Nam qua bản dịch của Nguyễn Khắc Dương và các cộng tác viên. Một sự trùng hợp ngẫu nhiên lý thú là 10 năm cũng là thời gian nối hai sự kiện lớn trong lịch sử dân tộc: Năm 1418, tức là tròn 580 năm trước, người anh hùng dân tộc Lê Lợi cùng 18 bạn chiến đấu thân tín nhất đã làm lễ tuyên thệ, phất cờ khởi nghĩa chống giặc Minh tại khu rừng Lam Sơn (Thanh Hóa) và đúng 10 năm sau, năm 1428, tức là tròn 570 năm trước, sau đại thắng Chi Lăng Xương Giang tiêu diệt 10 vạn quân của tướng Liễu Thăng, đất nước hoàn toàn giải phóng, bản Bình Ngô đại cáo do Nguyễn Trãi soạn thảo - bản Tuyên ngôn Độc lập lần thứ hai của dân tộc ra đời.
Tất cả những sự kiện lớn ấy cùng những mưu mô của bọn quyền thần bất tài mà hiểm ác dẫn đến vụ án Lệ Chi viên oan trái, tàn khốc khiến cho 40 con người thuộc gia tộc Nguyễn Trãi bị sát hại đều được tác giả miêu tả tỉ mỉ, dựng thành những bức tranh hoành tráng trong “Vạn Xuân” bằng những chi tiết, nhân vật đặc sắc, sống động, bằng một bút pháp nhà nghề linh hoạt, khi gợi nên cảm hứng sử thi, khi tạo không khí thiêng liêng với những huyền thoại, có lúc đầy vẻ hài hước, nghịch ngợm với những trang viết như truyện kể dân gian, truyện tiếu lâm. Bút pháp ấy không chỉ tạo nên sức hấp dẫn cho “Vạn Xuân” mà còn thể hiện được đậm nét truyền thống, bản sắc văn hóa của dân tộc ta. Đó cũng chính là nguồn gốc sức mạnh giúp đội quân của Lê Lợi - Nguyễn Trãi chiến thắng được kẻ thù hung bạo.
“Vạn Xuân” còn giúp chúng ta cùng suy ngẫm về rất nhiều vấn đề của con người, từ những mối quan hệ tình cảm riêng tư giữa vợ chồng, cha con, thầy trò, bè bạn... đến cách xử sự trên-dưới, địch ta, thắng bại, sống chết... Và như tác giả đã viết trong lời phi lộ: “Sẽ thật bất công nếu nghĩ rằng tác phẩm "cổ điển" này chỉ muốn bao vây độc giả trong một bức màn chỉ phủ đầy bụi bặm của những thế kỷ xa xưa, trong khi thực ra đề tài chính yếu của cuốn sách - là vấn đề quyền lực - sẽ tất nhiên đưa độc giả tiếp xúc với những vấn đề muôn thuở - và do đó sẽ mang đầy tính thời sự... Đây là những nẻo đường đa dạng và tất yếu của quyền lực mà con người phải đi theo, qua các cuộc thăng trầm của lịch sử. Nào là quyền bính bị thoán đoạt, quyền bính phải bảo vệ nhân danh chính thống, nào là mãnh lực của tình yêu, của dục tính, của cái bụng, nào là quyền lực theo lòng ước mơ, quyền lực của thế giới hữu hình với những thế lực vô hình xuyên qua... Chúng ta sẽ gặp lại trong tác phẩm này một chủ đề không bao giờ múc cạn: Đó là mối tương quan giữa kẻ cầm quyền và giới trí thức (giữa nhà vua và kẻ sĩ)...” Chính là từ cách nhìn không đơn giản và đầy chất trí tuệ này, vấn đề tác giả đặt ra trong “Vạn Xuân” đã vượt qua sự hạn hẹp của một câu chuyện lịch sử cụ thể của một dân tộc để vươn tới tính khái quát có ý nghĩa muôn đời đối với nhân loại.
![]() |
Riêng đối với Huế, vùng đất chứa đầy những câu chuyện lịch sử, ngoài tác giả Thái Vũ, còn ít cây bút bỏ công sức, tâm huyết để dựng nên những tác phẩm vừa phản ánh được một giai đoạn lịch sử có ý nghĩa của dân tộc, vừa có tầm khái quát với trình độ nghệ thuật cao. Tiểu thuyết “Vạn Xuân” gợi nhắc trách nhiệm nhà văn đối với những đề tài lịch sử của dân tộc, đồng thời có thể giúp các nhà văn Việt Nam thêm kinh nghiệm xây dựng những bộ tiểu thuyết lớn như vấn đề quyền hư cấu trong tiểu thuyết lịch sử, sự phối hợp bút pháp sử thi với huyền thoại và dân gian, cách thể hiện đời tư của nhân vật anh hùng... và trước hết, hơn hết là kỳ công trong sưu tập tài liệu. “Có bột mới gột nên hồ”. Điều này càng đúng với tiểu thuyết lịch sử. Nếu không bỏ công sức trong 9 năm trời nghiền ngẫm cả “núi” tài liệu, tìm gặp rất nhiều nhân vật tên tuổi ở Việt Nam thì dù tài hoa mấy, Yveline Feray cũng không viết nên được “Vạn Xuân”. Trong tình trạng không ít cuốn phim, tiểu thuyết ra đời theo kiểu “mì ăn liền” sơ lược và cẩu thả, có thể nói đây cũng là một vấn đề “thời sự” đặt ra từ “Vạn Xuân”.
N.K.P
(TCSH117/11-1998)
NGUYỄN VĂN HOA1. Tôi là người Kinh Bắc, nên khi cầm cuốn sách Văn chương cảm và luận (*) của Nguyễn Trọng Tạo là liền nhớ ngay tới bài hát Làng quan họ quê tôi của anh mà lời ca phỏng theo bài thơ Làng quan họ của nhà thơ Nguyễn Phan Hách.
TRẦN HUYỀN SÂMSau mười năm, kể từ khi “Cái trống thiếc” ngỗ ngược của chú lùn Oska vang lên trên đống gạch đổ nát của thế chiến II, Herta Munller đã tiếp nối Gunter Gras và vinh danh cho dân tộc Đức bởi giải Nobel 2009.
NGUYỄN ĐÌNH CHÍNH (nhân Đọc "Từ những bờ hoa gió thổi về")Ông Trần Nhật Thu sinh năm 1944 ở Quảng Bình. Ông lớn lên, làm thơ, đoạt giải thi ca cũng từ miền đất gió cát này. Năm 1978 ông rời Quảng Bình như một kẻ chạy trốn quê hương. Nhưng hơn hai chục năm nay miền quê xứ cát vẫn âm thầm đeo bám thơ ông. Qua đó lộ cảm tâm trạng ông vẫn đau đáu miền gió cát này.
Nhà văn Tô Nhuận Vỹ tên thật là Tô Thế Quảng, sinh ngày 25 tháng 8 năm 1941, quê ở Vinh Xuân, Phú Vang, Thừa Thiên Huế. Anh đã kinh qua các công việc: dạy học, phóng viên, biên tập viên… Anh từng giữ các chức vụ: Tổng thư ký và Chủ tịch Hội Văn nghệ Bình Trị Thiên, Tổng biên tập tạp chí Sông Hương, Giám đốc Sở Ngoại vụ, đại biểu HĐND tỉnh Thừa Thiên Huế, Uỷ viên Ban kiểm tra, Uỷ viên Hội đồng văn xuôi và Ban đối ngoại Hội Nhà văn Việt Nam.
ĐÔNG LAThế là sự ồn ào qua rồi. Diễn đàn đã đóng cửa. Nhưng lẽ nào việc thẩm định văn chương chỉ râm ran một hồi như thế, rồi cái nhùng nhằng còn nguyên nhùng nhằng, sự mâu thuẫn còn nguyên mâu thuẫn, và chuyện hay dở đến đâu cũng vẫn cứ mãi lửng lơ!
ĐÀO DUY HIỆP"Ngữ pháp, ngữ pháp khô khan chính nó, trở thành cái gì đó như một thuật phù thủy, gọi hồn; các từ sống lại, được cấp xương thịt, danh từ trong dáng vẻ tôn nghiêm bản thể của nó, tính từ, trang phục trong suốt khoác lên nó và nhuộm sắc cho nó một lớp tráng, còn động từ, thiên thần của vận động, mang lại cho câu sự động dao" (Baudelaire) (1)
MAI VĂN HOANMai Văn Hoan sinh 20-1-1949, quê Thanh Trạch, Bố Trạch, Quảng Bình. Anh tốt nghiệp khoa Văn, Đại học Sư phạm Vinh và từng dạy ở các trường: Cấp 3 Minh Hoá (1971-1973), Sư phạm 10+3 Quảng Bình (1973-1979), Hai Bà Trưng (1979-1985), Quốc Học (1985-2009). Anh từng tham gia bồi dưỡng hàng chục học sinh giỏi văn tỉnh Bình Trị Thiên (1979-1989), tỉnh Thừa Thiên Huế (1989-2009) đoạt giải Quốc gia. Một số học sinh của anh đã trở thành phó giáo sư, tiến sĩ, cán bộ quản lý, nhà văn, nhà báo... nhưng vẫn “mãi mãi không thể nào quên những giờ dạy văn của thầy Mai Văn Hoan” như lời chị Lương Thị Bích Ngọc tâm sự trên VietNamNet.
NGUYỄN HỮU NGÔ Cuốn sách đồ sộ "Côn Đảo" của Nhà xuất bản Trẻ (1996) là một nguồn tư liệu quý mà những người làm công việc nghiên cứu lịch sử cách mạng Việt Nam không thể không tìm đến. Vì vậy sự chính xác về thông tin đòi hỏi phải khẳng định. Và cũng vì vậy tôi có đôi điều xin thưa với ban biên tập Nhà xuất bản Trẻ về những thông tin về nhân vật Mai Tấn Hoàng được coi là người tử tù cách mạng.
VÕ THỊ QUỲNHĐặng Huy Trứ (1825 - 1874) đã để lại khá nhiều thơ văn cho đời. "Từ Thụ Yếu Quy"(*) tập sách bàn về nạn hối lộ và đức thanh liêm của người làm quan, là một trong những áng văn quý giá ấy.
Văn Cầm Hải tên thật Nguyễn Thanh Hải, sinh ngày 20 tháng 01 năm 1972, quê ở làng Trần Xá, Hàm Ninh, Quảng Ninh, Quảng Bình.
CAO HUY HÙNGBa mươi năm đã trôi qua, kể từ ngày Bác Hồ vĩnh biệt chúng ta! Người đã để lại cho toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta di sản vô cùng quí báu: Đó là bản di chúc lịch sử của thời đại Hồ Chí Minh, thời đại rực rỡ nhất trong lịch sử vinh quang hàng ngàn năm của dân tộc. Đó là kỷ nguyên độc lập dân tộc, tự do của Tổ quốc, kỷ nguyên cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội.
LÊ THỊ MÂYĐề tặng một giấc mơ là tập thơ hay và buồn của Lâm Thị Mỹ Dạ. Tập thơ này được giải thưởng của UBTQLH các Hội Văn học Nghệ thuật Việt Nam năm 1998. Sau khi xóa bao cấp trong in ấn thơ, rất nhiều người có cơ hội tự in thơ, có khi là mỗi năm một tập. Lâm Thị Mỹ Dạ không ở trong diện ấy.
ĐẶNG TIẾNPhê bình huyền thoại(1) của Đào Ngọc Chương là một cuốn sách mỏng, in giới hạn, có lẽ chỉ nhắm vào một nhóm sinh viên, nhưng là sách cần yếu, mới mẻ.
HỒNG NHUĐó là “Tình bậc thang” (NXB Hội Nhà văn 2006) và “Mặt cắt” (NXB Hội Nhà văn 2007) của một nữ thi sĩ mà cho đến nay không nhiều người biết đến, ít nhất là trong làng thơ. Vì một lẽ rất giản đơn: chị mới xuất hiện trên thi đàn Việt Nam vài ba năm nay thôi.
FAN ANHTrong cuộc sống của tất cả chúng ta, đôi khi nụ cười không đồng nghĩa với sự hạnh phúc, cũng như nước mắt không phải bao giờ cũng đồng điệu với nỗi đau. Chính vì thế, mặc dù tiểu thuyết Ba ơi, mình đi đâu? của Jean Louis Fournier là một tác phẩm có thể “gây ra” không ít những tiếng cười, nhưng cảm xúc thanh lọc (Catharsis) mà cuốn sách nhỏ này mang lại cũng lớn lao như bất kì một vở bi kịch nào.
Ngày 6 tháng 4 năm 2007 tại Hà Nội, chúng tôi đến thăm nhà thơ Dương Tường tại nhà riêng. Dương Tường ngồi sau một chiếc bàn nhỏ và thấp chất đầy sách vở và ly tách giữa một căn phòng rộng dùng làm phòng triển lãm tranh. Tranh treo kín các tường.
ĐOÀN TUẤNTrong tâm tưởng của tôi, thi sĩ Nguyễn Bính là một người có dáng gầy, vóc nhỏ, gương mặt nhẹ nhõm với đôi mắt sáng, tinh anh, mũi dọc dừa và cái miệng cân đối. Tóc Nguyễn Bính không bao giờ để dài. Áo quần Nguyễn Bính thường có màu sáng. Ông đi lại nhanh nhẹn, nhiều khi vội vã. Gương mặt Nguyễn Bính là một gương mặt ưa nhìn bởi trong đó chứa đựng chiều sâu của nhiều ý nghĩ và sắc mặt thay đổi theo tâm trạng thất thường của ông.
PHẠM QUANG TRUNGTôi muốn nói đến bài “ Tạm biệt” (hay “ Tạm biệt Huế”) của nhà thơ Thu Bồn. Dẫu đã có nhiều bài thơ hay, rất hay lấy cảm hứng từ Huế, tôi dám quả quyết là nó sẽ vẫn được nhắc tới như là một trong những bài thơ hay nhất. Xin kể một kỷ niệm đẹp riêng với tôi.
NGUYỄN KHẮC PHÊNâng hợp tuyển “Hải Bằng” (HTHB) sang trọng và trĩu nặng trên tay, thật nhiều cảm xúc tràn đến với tôi. Cuốn sách được gia đình nhà thơ Hải Bằng tặng cho tất cả những người đến dự ngày giỗ lần thứ 11 của nhà thơ được tổ chức tại một ngôi nhà mới xây ở cuối đường Thanh Hải - lại là tên nhà thơ quen thuộc của xứ Huế.
TÔN PHƯƠNG LANCũng như những nhà văn mặc áo lính thuộc thế hệ đầu và tờ tạp chí Văn nghệ quân đội của họ, Trần Dần là một tên tuổi quen thuộc mà gắn với tên tuổi ông là cuốn tiểu thuyết Người người lớp lớp. Là một học sinh thành phố, khi Cách mạng tháng Tám thành công, 19 tuổi, ông bắt đầu hoạt động cách mạng rồi đầu quân tham gia kháng chiến chống Pháp và hoạt động văn nghệ.