Kỷ niệm với Họa Sư Lê Bá Đảng(1921-2015)

10:10 11/03/2015

Những năm 1973-1976, đến Paris  tôi bắt đầu công việc sinh viên, vừa làm vừa học là ký tên và đánh số giùm tranh litho cho  Họa sĩ Lê Bá Đảng.

Mỗi bức tranh litho ông in ra 300, 500 bản, bận rộn công việc sáng tác, ông giao công việc ấy cho tôi, ký tên thay ông và đánh số từ 1 đến 500 trên mỗi bức tranh. Sáng tôi đến nhà in, cặm cụi làm việc và trưa ông đến đưa tôi đi ăn tiệm Việt, tiệm Tàu. Thuở sinh viên được công việc làm như thế thật quý báo, tôi có thể thu xếp thì giờ đi học theo ý tôi muốn, tôi trở thành người thân thiết với ông và nhiễm cái nghệ thuật của ông, mấy mươi năm sau tôi đi học thêm 10 năm điêu khắc, một nghề chơi tay trái, tôi tạc bệ đá theo phong cách Chămpa, Angkor : thần thoại và lịch sử Việt Nam, triển lãm tại nhà Văn Hóa Việt Nam, Foyer Monge, các Galerie Paris. Mỗi lần tôi triển lãm mời, ông đều đến và ký tên Lê Bá Đảng vào giữa trang giấy sổ lưu niệm không một lời bình phẩm. Nhưng được ông đến dự là một niềm vui không cùng.

Điều thú vị là mỗi trưa xong công việc, ngồi ăn với ông nghe ông kể chuyện đời ông, cuộc phiêu lưu đi vào thế giới hội họa thật tình cờ.

Ông sinh năm 1921 tại làng Bích La Đông, Triệu Phong, Quảng Trị, cùng làng với ông Lê Duẩn. Ông Duẩn họ Lê nhưng không thuộc họ Lê Bá, nhưng vợ ông ấy là cô họ, nên ông Lê Bá Đảng gọi ông Lê Duẩn bằng cậu. Tôi còn nhớ những năm ấy, món quà ông cậu gửi cho  ông cháu Lê Bá Đảng tại Paris , là những vali ngoại giao đầy mảnh máy bay Mỹ để ông cháu biến thành tác phẩm nghệ thuật.

Làng Bích La Đông nhìn ra Biển Đông, thuở nhỏ ông thường ngắm biển mà ước mơ một cuộc đời đi xa. Ông có một người cậu , tốt nghiệp tiểu học làm thông phán hỏa xa ở Vinh, mấy lần ông ra Vinh toan tính đi xa đều bị cậu dẫn về quê quán. Năm 19 tuổi, ông cùng hai thanh niên Bích La khác, thấy giấy huyện kêu đăng lính đi Tây, ông chẳng biết Tây là đâu, nhưng ước mơ giang hồ đã thúc dục họ ra đi, cha ông hay tin tìm cách rút tên, nhưng không được, nên ông cùng hai bạn xuống tàu bắt đầu cuộc phiêu lưu.

Tháng 2 năm 1940 tàu cập bến Marseille, ông được đưa đến Baumettes, một trại tù được biến thành trại lính Đông Dương. Nước Pháp bại trận. Tháng 6-1940 Thiếu Tướng Charles de Gaulle kêu gọi kháng chiến trên đài BBC từ Anh Quốc. Từ Roche sur Yon, Lê Bá Đảng bị Đức bắt làm tù binh giải đi khổ sai nhiều nơi ở Quimper, Chartres, Đức đến cuối năm 1941 mới về lại Marseille.

 

Hai tranh con mèo của Lê Bá Đảng

Năm 1942 tại trại Lannamezan, Lê Bá Đảng bị giam lỏng, ông trốn đến Toulouse không giấy tờ ở nhờ một người quen trong căn hầm. Một hôm đang lang bang giữa đường thì gặp một người Việt Nam tên Trần Ý, học Mỹ Thuật rủ ông đến xưởng vẽ. Đến nơi được phát một tờ giấy trắng và bút than. Ông có vẽ bao giờ đâu chỉ dám vẽ một góc. Ông thầy đi qua liếc mắt nhìn khen một tiếng bien, tốt lắm. Thế là ông được nhận vào trường, ông vừa đi học vừa đi làm quét dọn cho một xưởng cán thép. Ông học hết  môn này đến môn khác : vẽ, điêu khắc, kiến trúc, trang trí. Những ngày tại Toulouse, ông được bà phiếu mẫu Maman Jeanne, giúp đỡ và một bạn sinh viên Jacques Ruffié. 50 năm sau năm 1991 họa sĩ Lê Bá Đảng vẽ mẫu thanh kiếm cho Ruffié khi ông được vào Hàn Lâm Viện.

Năm 1946  Họa sĩ Lê Bá Đảng đỗ đầu trường Mỹ Thuật Toulouse, và bức tranh được giữ tại Bảo Tàng Viện St Augustin. Cũng năm đó Việt Kiều và lính thợ vùng Toulouse quyên góp được 1 triệu Franc, cử Lê Bá Đảng mang lên trao cho phái đoàn  Chính Phủ Việt Nam sang Pháp  Hội nghị Fontainbleau. Tại Paris lần đầu tiên ông gặp gỡ các họa sĩ Lê Phổ, Mai Thứ, Vũ Cao Đàm, ông nhận xét các họa sĩ này chỉ vẽ đàn bà Việt Nam và hoa.

Năm 1949, ông yêu một cô gái nhà quyền quý, nhưng bà mẹ vợ hỏi ông:  Anh lấy gì nuôi con gái tôi ?  Thất vọng mối tình tan vỡ, ông bỏ lên Paris. Tuy tốt nghiệp Mỹ thuật Toulousse nhưng lên Paris ông chỉ sống bằng nghề vẽ quảng cáo. Ông gặp chị Myshu, cha Việt gốc Thanh Hóa. Hai người yêu nhau và có một đứa con trai, nhưng bất hạnh thay lúc đó hai người còn nghèo, không tiền chữa chạy, người con mang bệnh tật chỉ ngồi xe lăn, không nói được, đến 30 tuổi mới mất.

Một hôm đi lang thang trong xóm Latinh thấy một con đường tên Rue du Chat qui pêche. Phố con mèo câu cá, ông chợt nảy ý định vẽ tranh mèo bán trong một tiệm bán cho du khách trên phố này. Ông vẽ 5 bức và thuyết phục ông chủ tiệm Evest gửi bán. Chiều ông trở về, ông Evest điện thoại bảo đã bán hết, và đòi thêm. Tháng ấy ông bán 160 bức. Từ năm 1950 họa sĩ Lê Bá Đảng bắt đầu triển lãm tranh tại hiệu sách Globe, phố Carmes, rồi các Galerie Paris, Cannes, La Napoule, Dusseldort, Philadelphia, London, Newyork. Rồi từ các nước Bắc Âu, Nhật Bản, Ấn Độ rồi về Hà Nội, Bích La Đông.

Để thoả mãn nhu cầu đòi hỏi của các Galerie các nước, ông vẽ nhiều tranh Lithographie, mỗi bức in thành 300, 500 bản đánh số. Giá tranh phải chăng, tranh litho vẽ ngựa, vẽ mèo, vẽ thuyền,  tranh Phật.. được chưng bán khắp các hiệu tranh danh tiếng thế giới, cho những nhà xuất bản tranh litho. Khó mà biết số lượng tranh Litho, ông bán ra trên các nước là bao nhiêu, nhưng chỉ những năm cộng tác với ông, tôi đã ký giùm ông hàng chục ngàn chữ ký.

Năm 1989 Viện Quốc Tế St Louis trao giải thưởng cho Lê Bá Đảng họa sĩ có tài năng và tư tưởng nhân đạo.

Năm 1992 Trung tâm Tiểu sử quốc tế Cambridge đưa ông vào danh mục những người nổi tiếng thế giới.

1992 Triển lãm đầu tiên tại Việt Nam tại làng Bích La Đông nơi ông sinh ra.

1994. Nhà nước Pháp tặng ông Huân Chương Văn Hóa Nghệ Thuật. Họa sư Lê Bá Đảng bậc thầy Hội họa của hai thế giới Đông Tây. Và ông đã tạo ra Không gian Lê Bá Đảng. Lebadangespaces trong nghệ thuật đương đại.

2006 Trung Tâm nghệ thuật Lê Bá Đảng tại Huế. 15 A đường Lê Lợi được xây dựng và đi vào hoạt động để trưng bày tác phẩm Không gian Lê Bá Đảng.

Ngày 7-3-2015 Họa sĩ Lê Bá Đảng từ trần tại Paris  thọ 93 tuổi,  hỏa táng tại Nghĩa trang Père Lachaise ngày 12-3-2015  tro cốt sẽ được đưa về làng Bích La Đông, Triệu Phong, Quảng Trị.

Họa sư Lê Bá Đảng đã qua đời, một cuộc đời phiêu lưu sống động, một tài năng đa dạng đã yên nghỉ. Từ nay ông còn lại các tác phẩm để lại trong bảo tàng viện tại Pháp, tại Việt Nam và các nước. Ông còn lại trong các bộ tranh sưu tập tư nhân lớn trên thế giới. Ông còn những giấc mơ thực hiện những không gian văn hóa tại Huế, biến Huế thành một thành phố nghệ thuật. Gaudi(1852-1926), những công trình tuyệt mỹ, đã để lại những dự án cho thành phố Barcelone, Tây Ban Nha, dấu ấn ông ở những ngôi nhà, những công viên, màu sắc hình dạng vui mắt, hàng triệu du khách hàng năm đến viếng thăm, trăm  năm sau vẫn tiếp tục xây dựng, ngôi thánh đường Sacrada Familia, Gaudi vẽ kiểu dựng từ 1883 đến 2025 mới xong.  Lê Bá Đảng một Gaudi hiện đại của Việt Nam, ước mơ những dự án không gian của ông sẽ được thực hiện tại Huế.

Họa sư Lê Bá Đảng qua đời, là một người từng cộng tác với ông, tôi không khỏi bùi ngùi, nhớ những kỷ niệm thân thương, một người vui tánh, hiền lành, một bản lĩnh tài năng, gắn bó với phong trào Việt Kiều tại Pháp từ những ngày khốn khó, gian nan, bom đạn dầu sôi lửa bỏng. Ông không chỉ vẽ, hay điêu khắc cho nghệ thuật mà còn cho đấu tranh của đất nước qua hai cuộc chiến; từ giấy, vải, hay lụa mà còn bằng những mãnh vỡ máy bay, vỏ đạn  nói lên sức chiến đấu hùng tráng của dân tộc. Ông đã xây dựng những ước mơ cho Việt Nam trên con đường nghệ thuật và bắt nhịp cầu sáng tạo cho nghệ thuật Việt Nam ngang tầm thế giới.

Paris 8-3-2015
Nguồn: Phạm Trọng Chánh - VHNA

 

 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • BỬU Ý

    Hàn Mặc Tử (Nguyễn Trọng Trí) từng sống mấy năm ở Huế khi còn rất trẻ: từ 1928 đến 1930. Đó là hai năm học cuối cùng cấp tiểu học ở nội trú tại trường Pellerin (còn gọi là trường Bình Linh, thành lập năm 1904, do các sư huynh dòng La San điều hành), trường ở rất gần nhà ga tàu lửa Huế. Thời gian này, cậu học trò 17, 18 tuổi chăm lo học hành, ở trong trường, sinh hoạt trong tầm kiểm soát nghiêm ngặt của các sư huynh.

  • LÊ QUANG KẾT
                   

    Giai điệu và lời hát đưa tôi về ngày tháng cũ - dấu chân một thuở “phượng hồng”: “Đường về Thành nội chiều sương mây bay/ Em đến quê anh đã bao ngày/ Đường về Thành nội chiều sương nắng mới ơ ơ ơ/ Hoa nở hương nồng bay khắp trời/ Em đi vô Thành nội nghe rộn lòng yêu thương/ Anh qua bao cánh rừng núi đồi về sông Hương/ Về quê mình lòng mừng vui không nói nên lời…” (Nguyễn Phước Quỳnh Đệ).

  • VŨ THU TRANG

    Đến nay, có thể nói trong các thi sĩ tiền chiến, tác giả “Lỡ bước sang ngang” là nhà thơ sải bước chân rong ruổi khắp chân trời góc bể nhất, mang tâm trạng u hoài đa cảm của kẻ lưu lạc.

  • TRẦN PHƯƠNG TRÀ

    Đầu năm 1942, cuốn “Thi nhân Việt Nam 1932-1941” của Hoài Thanh - Hoài Chân ra đời đánh dấu một sự kiện đặc biệt của phong trào Thơ mới. Đến nay, cuốn sách xuất bản đúng 70 năm. Cũng trong thời gian này, ngày 4.2-2012, tại Hà Nội, Xuân Tâm nhà thơ cuối cùng trong “Thi nhân Việt Nam” đã từ giã cõi đời ở tuổi 97.

  • HUYỀN TÔN NỮ HUỆ - TÂM
                                      Đoản văn

    Về Huế, tôi và cô bạn ngày xưa sau ba tám năm gặp lại, rủ nhau ăn những món đặc sản Huế. Lần này, y như những bợm nhậu, hai đứa quyết không no nê thì không về!

  • LƯƠNG AN - NGUYỄN TRỌNG HUẤN - LÊ ĐÌNH THỤY - HUỲNH HỮU TUỆ

  • BÙI KIM CHI

    Nghe tin Đồng Khánh tổ chức kỷ niệm 95 năm ngày thành lập trường, tôi bồi hồi xúc động đến rơi nước mắt... Con đường Lê Lợi - con đường áo lụa, con đường tình của tuổi học trò đang vờn quanh tôi.

  • KIM THOA

    Sao anh không về chơi Thôn Vỹ
    Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên        
          
                       (Hàn Mạc Tử)

  • NGUYỄN VĂN UÔNG

    Hôm nay có một người du khách
    Ở Ngự Viên mà nhớ Ngự Viên         
     

    (Xóm Ngự Viên - Nguyễn Bính)

  • HOÀNG THỊ NHƯ HUY

    Tôi biết Vân Cù từ tấm bé qua bóng hình người đàn bà gầy đen, gánh đôi quang gánh trĩu nặng trên vai, rảo khắp các xóm nhỏ ở Thành Nội, với giọng rao kéo dài: “Bún…bún…ún!” mà mẹ đã bao lần gọi mua những con bún trắng dẻo mềm.

  • LÊ QUANG KẾT                
                      Tùy bút

    Hình như văn chương viết về quê hương bao giờ cũng nặng lòng và giàu cảm xúc - dù rằng người viết chưa hẳn là tác giả ưu tú.

  • TỪ SƠN… Huế đã nuôi trọn thời ấu thơ và một phần tuổi niên thiếu của tôi. Từ nơi đây , cách mạng đã đưa tôi đi khắp mọi miền của đất nước. Hà Nội, chiến khu Việt Bắc, dọc Trường Sơn rồi chiến trường Nam Bộ. Năm tháng qua đi.. Huế bao giờ cũng là bình minh, là kỷ niệm trong sáng của đời tôi.

  • LÊ QUANG KẾT

    Quê tôi có con sông nhỏ hiền hòa nằm phía bắc thành phố - sông Bồ. Người sông Bồ lâu nay tự nhủ lòng điều giản dị: Bồ giang chỉ là phụ lưu của Hương giang - dòng sông lớn của tao nhân mặc khách và thi ca nhạc họa; hình như thế làm sông Bồ dường như càng bé và dung dị hơn bên cạnh dòng Hương huyền thoại ngạt ngào trong tâm tưởng của bao người.

  • HUY PHƯƠNG

    Nỗi niềm chi rứa Huế ơi
    Mà mưa trắng đất, trắng trời Thừa Thiên         
                          
                                              (Tố Hữu)

  • PHAN THUẬN AN

    Huế là thành phố của những dòng sông. Trong phạm vi của thành phố thơ mộng này, đi đến bất cứ đâu, đứng ở bất kỳ chỗ nào, người ta cũng thấy sông, thấy nước. Nước là huyết mạch của cuộc sống con người. Sông là cội nguồn của sự phát triển văn hoá. Với sông với nước của mình, Huế đã phát triển theo nguyên tắc địa lý thông thường như bao thành phố xưa nay trên thế giới.

  • MAI KIM NGỌC

    Tôi về thăm Huế sau hơn ba thập niên xa cách.Thật vậy, tôi xa Huế không những từ 75, mà từ còn trước nữa. Tốt nghiệp trung học, tôi vào Sài Gòn học tiếp đại học và không trở về, cho đến năm nay.

  • HOÀNG HUẾ

    …Trong lòng chúng tôi, Huế muôn đời vẫn vĩnh viễn đẹp, vĩnh viễn thơ. Hơn nữa, Huế còn là mảnh đất của tổ tiên, mảnh đất của trái tim chúng tôi…

  • QUẾ HƯƠNG

    Năm tháng trước, về thăm Huế sau cơn đại hồng thủy, Huế ngập trong bùn và mùi xú uế. Lũ đã rút. Còn lại... dòng-sông-nước-mắt! Người ta tổng kết những thiệt hại hữu hình ước tính phải mươi năm sau bộ mặt kinh tế Thừa Thiên - Huế mới trở lại như ngày trước lũ. Còn nỗi đau vô hình... mãi mãi trĩu nặng trái tim Huế đa cảm.

  • THU TRANG

    Độ hai ba năm thôi, tôi không ghé về Huế, đầu năm 1999 này mới có dịp trở lại, thật tôi đã có cảm tưởng là có khá nhiều đổi mới.

  • TUỆ GIẢI NGUYỄN MẠNH QUÝ

    Có lẽ bởi một nỗi nhớ về Huế, nhớ về cội nguồn - nơi mình đã được sinh ra và được nuôi dưỡng trong những tháng năm dài khốn khó của đất nước, lại được nuôi dưỡng trong điều kiện thiên nhiên vô cùng khắc nghiệt. Khi đã mưa thì mưa cho đến thúi trời thúi đất: “Nỗi niềm chi rứa Huế ơi/ Mà mưa xối xả trắng trời Trị Thiên…” (Tố Hữu). Và khi đã nắng thì nắng cho nẻ đầu, nẻ óc, nắng cho đến khi gió Lào nổi lên thổi cháy khô trời thì mới thôi.