Nghe nói Lê Quý Kỳ vừa in một quyển sách có bài "đánh" tập "Văn chương Cảm & Luận" của tôi, tôi chợt nhớ là cách đây hơn một năm mấy người quản lý ở mấy tờ báo và tạp chí trung ương và địa phương có cho tôi biết là họ nhận được bài viết của Lê Quý Kỳ, nhưng không in được vì văn hóa phê bình của họ không hợp với lối viết đánh đấm quy kết như vậy. Tôi có đề nghị họ cứ in, rồi tôi sẽ đọc, nếu thấy cần nói lại thì tôi sẽ viết bài nói lại. Nhưng rốt cuộc, không thấy báo nào, tạp chí nào in cả. Bây giờ nghe nói Lê Quý Kỳ đã in bài đó vào sách, tôi cũng muốn xem ý kiến của Lê Quý Kỳ về cuốn sách của mình như thế nào, cũng như tôi đã lắng nghe và đọc nhiều bài viết của những người khác về tập "Văn chương Cảm & Luận". Và cuối cùng tôi đã có trong tay quyển "Đường biên văn học" của Lê Quý Kỳ do NXB Văn Học ấn hành, "in xong và nộp lưu chiểu năm 2000", có in bài phê bình tập "Văn chương Cảm & Luận". Nếu cứ như người ta dùng chữ "đánh" đối với tôi, thì trong tập sách này, Lê Quý Kỳ (gọi tắt là LQK cho tiện) không chỉ "đánh" tôi mà còn "đánh" hàng loạt các nhà văn đồng nghiệp nổi tiếng như Phong Lê, Đỗ Minh Tuấn, Nguyễn Hữu Sơn, Vương Trí Nhàn, Huỳnh Như Phương, Nguyễn Đăng Mạnh, Nguyễn Hà, Vĩnh Quang Lê, Thạch Quỳ, Đông La, Hoàng Như Mai, Ngô Thảo, Nguyễn Hoàng Sơn, Nguyễn Quang Thiều, Nguyễn Thụy Kha... Rồi LQK "đánh" cả những người mà LQK gọi là thầy khi họ phê bình bài viết "Văn học thời đổi mới" của mình là "phủ định hoàn toàn bản lĩnh nền văn học cách mạng trong tiến trình đổi mới chung của đất nước" (Bùi Nguyễn). Đến nổi tiếng như học giả - nhà văn hóa Nguyễn Văn Huyên - cố bộ trưởng Bộ Giáo dục mấy chục năm liền mà LQK cũng không biết: "Nguyễn Văn Huyên là ai, thực lòng, chúng tôi chưa được hân hạnh diện kiến, cho dù chỉ là trên giấy" (tr.164).Táo tợn hơn, LQK còn "đánh" cả Immanuel Kant, là "một trong những nhà tư tưởng lớn nhất của thế kỷ XVIII" tận bên Đức. Tôi thì không nghĩ là LQK "đánh đấm" gì, mà nếu có "đánh" thì LQK cũng chỉ đánh hơi, đánh mót mà thôi,chứ làm gì có đủ nội công nội lực mà đánh ai. Vả lại, làm phê bình văn học (đúng nghĩa) mà "đánh đấm" thì đâu còn là phê bình văn học. Hơn nữa, nếu bị "đánh", bị "đấm" mà chết cả văn lẫn người thì chả ai dám làm nhà văn. Tôi nghĩ LQK có "năng khiếu phê phán", nhưng có lẽ LQK ảo tưởng về "năng khiếu" của mình nên đã quá đà, vì thế mà khi LQK phê bình, người ta lại thấy LQK "đánh". Có thể IC của LQK chập mạch, hoặc như người ta thường nói là "IC có vấn đề". Tôi không muốn làm nhà phê bình để phán xét hay "sổ toẹt" toàn bộ quyển "Đường biên văn học" như kiểu LQK đã làm với nhiều quyển sách của đồng nghiệp. Tôi chỉ muốn chỉ ra cách nhìn đầy sai trái, hằn học và vu khống của LQK đối với tập "Văn chương Cảm & Luận" của tôi, ngõ hầu để bạn đọc có thể thấy rõ một kiểu "phê bình chập mạch" là điều có thật. (Tất nhiên là không chỉ "chập mạch" riêng với tôi, như đã nói ở trên). Bài viết của LQK về tập sách của tôi, có tên là: "Văn chương Cảm & Luận, một bước thụt lùi trong phê bình văn học" (tr.73 - 83). Với LQK, nói cuốn sách của tôi là "một bước thụt lùi" e còn hơi nhẹ, chưa đã, cho nên cuối bài viết LQK đã đẩy nó "thụt lùi" xa hơn nữa với kết luận danh thép: "nếu xem "Văn chương Cảm & Luận" là sự kiện văn học năm 98 thì đó là sự kiện thụt lùi, kéo phê bình văn học trở về thời kỳ trước cả Cách Mạng Tháng Tám" (tr.83). Ô hay, tôi đọc câu kết luận ấy mà cười mỉm với một chút lo ngại, là LQK đã "quá giận mất khôn". Cái sự "chập mạch" này đã làm cho LQK quên mất rằng, phê bình văn học trước Cách Mạng Tháng Tám có những thời kỳ vàng son với những cuộc bút chiến nảy lửa, dựng lên mốc son thế kỷ trong phê bình văn học ta với những tên tuổi lẫy lừng như Hải Triều, Hoài Thanh và nhiều thức giả khác. LQK vô tình hoặc không hiểu phê bình thời ấy nên đã hạ thấp cái mốc son đó xuống để đẩy tôi được sánh vai cùng họ? Như vậy là LQK định vất tôi xuống hố, hóa ra lại vất tôi lên cao quá những gì tôi có. Tôi "hổng dám đâu!" Suốt cả 10 trang bài viết của LQK có cả loạt những qui sai quái gở. Tôi rất ngại trích dẫn nhiều LQK lẫn trích dẫn của chính mình trong bài viết này, nhưng nếu không trích dẫn thì bạn đọc sẽ không biết được những "qui sai quái gở" ấy như thế nào. Thôi thì đành lòng vậy, LQK viết: "Hồ Phi Phục mới có một tập thơ vỏn vẹn 24 bài, mặc dù ông đã ngấp nghé tuổi về hưu. Vậy mà Nguyễn Trọng Tạo không bỏ sót một từ cao sang, sáng giá nào tâng bốc tác giả này. (...) Và cuối cùng Nguyễn Trọng Tạo đóng vai Đức Giáo Hoàng phong Thánh cho người mình mến mộ: Hồ - Phi - Phục - Thơ" (tr.75). Nói như vậy chẳng hóa ra LQK cấm khen thơ người cao tuổi mà họ chỉ "mới có một tập thơ" hay sao? Tôi nói để LQK rõ là, có khi chỉ cần 1 bài hoặc 1 câu thơ thôi, cũng đáng để cho người đời luận bàn dài dài rồi. Ở ta, tập thơ "Đầu súng trăng treo" của Chính Hữu cũng chỉ có "vỏn vẹn" 20 bài, nhưng nó đã làm cho nhà thơ và những người phẩm bình trở nên nổi tiếng đó thôi. Tập thơ "Sóng bãi ngang" của Hồ Phi Phục là một tập thơ có học, có văn hóa, có trí tuệ và cảm xúc, và có giọng điệu riêng. Tôi tin là LQK không hiểu được loại thơ sâu kín này. Nhưng không hiểu, không biết thì học hỏi để hiểu biết - (Không biết thì hỏi tự ti làm gì!), chứ sao lại nổi đóa bảo tôi "tâng bốc"? Là một người làm thơ, tôi trân trọng các giá trị thơ ca của mọi người. Thích thì khen (hoặc không khen), không thích thì chê (hoặc không chê) cũng chả sao. Đâu cứ phải chê thơ người này người khác thì mình mới có giá, mới là nhà phê bình có bản lĩnh? Và không phải ai cũng dễ dàng thành "Đức Giáo Hoàng" và ai cũng dễ dàng được "phong Thánh" như LQK tưởng tượng ra. Nếu LQK chịu khó đọc lại vài dăm lần nữa đoạn văn của tôi viết về Hồ Phi Phục, chắc có thể hiểu được ý tôi nói: "Anh (Hồ Phi Phục) đã mở cho mình một lối riêng, giống như mỗi người thơ mở lối cho riêng mình. Chính vì điều đó mà tôi rất thú vị khi viết về Hồ - Phi - Phục - Thơ". Ví như, nếu tôi viết về LQK - Phê - Bình thì cũng chỉ là LQK - Phê - Bình mà thôi. Chẳng lẽ viết như thế mà lại gọi là "phong Thánh" sao? Cũng với cách "hiểu" lạ lùng đó, LQK cho rằng cái công thức "Câu thơ hay = cái hữu hình + động từ + cái vô hình" do tôi phát hiện ra (vì trước tôi chưa ai lập ra công thức này) là phủ nhận công thức ấy trước thời chống Mỹ với câu hỏi "Công thức nêu trên có phải đến các nhà thơ trẻ chống Mỹ mới có?". Quả thật là LQK quá lo xa, khi mình chưa có gì lót bụng lại lo cho tận bên Đức người ta đã ăn chưa. Vâng, ca dao xưa cũng đã có những câu nằm trong công thức ấy (Chim vàng mổ nắng bờ ao), nhưng ở đây tôi chỉ muốn nói, trong thơ Hữu Thỉnh thì mật độ khá dày. LQK thường hay bắt bẻ những cái người ta không nói. Lối "phê bình chập mạch" này quả là kỳ quặc thật. Tôi vẫn phải trích dẫn của tôi và của LQK để thấy rõ thêm "cách đọc mắt lác"trong khi tiếp xúc với văn bản, nếu không gọi là vu khống, xuyên tạc. Tôi viết: "Sau ngày giải phóng, được đọc những tác giả đồ sộ mà "phía bên kia" dịch, tôi có cảm giác nước ta lúc ấy mới được tiếp xúc với "nửa kia" của thế giới. Ta biết rõ cả hai phe, hơn hẳn những nước bưng bít khác". Đó là một sự thật lịch sử đối với văn học. Nhưng LQK lại vu khống, xuyên tạc là: "Anh thay mặt cả nước cảm ơn phía bên kia". Tôi viết: "Thơ "Việt Cộng" giàu hào khí hùng tráng, hừng hực một ngọn lửa chiến đấu mới, nhưng đơn điệu về phương pháp biểu hiện.Thơ "Sài Gòn" có vẻ "phức tạp" hơn, nhưng nhìn chung sự kiếm tìm vẫn rơi vào vòng luẩn quẩn trong cái cũ ẩm mốc sướt mướt. Điều ấy thật dễ nhận thấy sau khi cuộc chiến tranh tàn khốc đã chấm dứt, chúng ta đọc lại nhau dưới con mắt chân tâm của người trong một nước nhằm gom nhặt lại những giá trị thơ ca còn óng ánh dưới tro than của cuộc chiến đã lụi tàn". LQK mỉa mai: "Anh đòi phải có sự công bằng giữa thơ Việt Cộng và thơ Sài Gòn". Nếu không có sự công bằng về giá trị thơ ca trong một dân tộc thì làm sao chúng ta in lại thơ "Sài Gòn" của Bùi Giáng như đã làm ở NXB Văn Học? Với "sự cố" bài thơ "Tản mạn thời tôi sống", tôi viết: "Còn tôi thì phải ngồi viết Thư Gửi Bộ Chính Trị dài 10 trang nhằm bảo vệ bài thơ của mình". LQK xuyên tạc: "Phải ngồi viết thư gửi Bộ chính trị vì đã trót dại dám Tản mạn thời tôi sống". Nếu không có "cách đọc mắt lác" thì làm sao LQK lại nhìn hai chữ "bảo vệ" thành ra "trót dại" được? Hay là LQK định đem hai chữ "trót dại" để làm quà tặng tôi? Xin cảm ơn, nhưng cũng xin chủ của "trót dại" mang về mà dùng làm của riêng mình. "Phê bình chập mạch" là loại phê bình "nhìn gà hóa cuốc" do từ cách đọc, do mặc cảm tội lỗi, mặc cảm dốt nát, hoặc do những cơn ác mộng vĩ cuồng trầm cảm mà thành. Khi đã không làm chủ được sự tỉnh táo cần có, nhà phê bình dễ mất bình tĩnh, dẫn tới sự thiếu khách quan, tạo ra cả những cuộc báo động giả và dựng lên cả những hiện trường giả để đánh lừa thiên hạ, nhưng lại luôn cho mình là đấng tối cao ban phát chân lý. Bệnh vĩ cuồng và bệnh trầm cảm là một đôi bạn chí cốt mà ngành tâm thần học đã chỉ ra. Nhưng người bệnh thường không tin mình có bệnh. Cũng như các nhà phê bình chập mạch làm sao có thể tin là mình chập mạch, IC có vấn đề? Có khi họ ngạo mạn lại tưởng người khác ngạo mạn. Tôi viết: "Một thời đằng đẵng, thơ ta được "tiêu chuẩn hóa" trên một phương pháp sáng tác duy nhất là phương pháp hiện thực XHCN, với mục đích duy nhất là phục vụ đám đông quần chúng công nông binh". Điều đó là có thật. Nhưng với kiểu "phê bình chập mạch", LQK dị ứng với từ "đám đông" mà tôi đã dùng đúng nghĩa một khái niệm về số nhiều, và có thể LQK cứ tưởng đấy là một thán từ ám chửi cả họ hàng gia tộc mình nên đã vội vàng lớn tiếng chửi trước: "Anh ngạo mạn gọi quần chúng công nông binh, những người từng làm nên lịch sử là đám đông. Không biết trong cái đám đông đó có hay không những người thân trong họ hàng, gia tộc anh" (tr.82). Nhưng nguy hại hơn là lối phê bình này thường tự cho mình cái quyền qui kết tội chính trị cho bất cứ người nào trái với "quan điểm chập mạch" của họ. Khi tôi viết về thời kỳ đổi mới: "Sự thức ngộ về chính trị, kinh tế và nghệ thuật hẳn đang tạo ra một nền tảng xã hội với những biến động từ thượng tầng đến hạ tầng, từ vĩ mô đến vỉ mô. Đấy là điều đáng mừng cho một thế giới phát triển mà các bộ phận tự điều chỉnh lẫn nhau chứ không phải cái này định ra tuyệt đối cho cái khác (như có thời đã từng nhầm lẫn)". Một nhận định thấm đẫm quan điểm duy vật khách quan, vậy mà LQK tự cho mình cái quyền cao giọng hạch sách tôi: "Các bộ phận nào tự điều chỉnh lẫn nhau, thưa anh? Chính trị, kinh tế và nghệ thuật chắc? Còn lâu mới có cái thứ tự điều chỉnh đó". Tôi biết chắc là không ai hiểu điều tôi nói ngớ ngẩn như LQK đã hiểu. Và LQK nhân danh cái gì mà dám lên giọng hạch sách như vậy? LQK cũng chỉ là LQK mà thôi. Nhưng cái sự "tôi đại diện cho tôi" của LQK đã quá đà, cả gan qui kết tôi đủ các loại tội: "Anh mơ hồ chính trị, hay anh tiếp tục theo chân kẻ khác,đòi cái thứ không bao giờ có, không ở nơi nào có, ấy là sự "bình đẳng" giữa văn nghệ và chính trị". LQK đã nhầm. Nếu tôi "mơ hồ chính trị" thì làm sao trong "Văn chương Cảm & Luận" tôi dám khẳng định rằng: "Tôi đánh giá cao những tác phẩm văn nghệ, bởi nó làm phong phú tâm hồn. Một tác phẩm hay có thể làm rung động toàn thế giới, tạo ra sự rung cảm vượt lên trên các thành kiến giai cấp, dân tộc hay chế độ chính trị khác nhau giữa con người đồng loại". Điều đó ở quá xa tầm hiểu biết của LQK. Nếu LQK hiểu được điều đó thì câu chuyện bất đắc dĩ hôm nay giữa tôi và LQK đã không xảy ra. Để kết thúc bài viết chưa kết thúc này, tôi muốn nhắc lại "sự cố" bài phê bình sách tôi của LQK sau khi viết ra đã gửi tới nhiều tòa soạn báo nhưng không có báo nào in cả. Trong khi đó, không ít tờ báo đã đăng bài của những người khác viết về "Văn chương Cảm & Luận". Ngay trên tờ báo Văn Nghệ của Hội Nhà văn Việt Nam cũng đã đăng liền mấy bài viết khá dài với những ý kiến khá thống nhất về tập sách này: "Tập sách của Nguyễn Trọng Tạo là một tập sách nghiêm túc, ngay từ thái độ đầu tiên của tác giả đối với thơ" - (Có thể nào thơ bật gốc giữa hồn anh - Thanh Thảo - VN số 25-19.6.1999); Văn chương Cảm & Luận của Nguyễn Trọng Tạo là một cuốn sách mực thước, khoa học và thấm đẫm vị đắm say của một người thơ đã, đang và sẽ lấy thơ làm nghiệp chính của đời mình" (Văn chương Cảm & Luận - Trịnh Thanh Sơn - VN số 34 - 21.8.1999), v.v... Việc khen chê đối với một tác phẩm văn học là bình thường, nhưng sẽ không hề bình thường đối với người khen chê có sẵn bệnh nhiễu tâm loạn trí, mà điển hình là lối "phê bình chập mạch". Cái lối phê bình ấy làm nhiễu loạn, "xú uế" (chữ của LQK) môi trường văn học. Nói về lối phê bình gàn rở này, nhà thơ - nhà phê bình Viên Mai trong tập "Tùy Viên Thi Thoại" nổi tiếng đã kể một câu chuyện thú vị: "Nhiều người khen câu thơ: Xuân giang thủy noãn áp tiên tri (Sông xuân nước ấm vịt biết trước) của Tô Đông Pha là hay. Tây Hà gạt đi mà rằng: Sông xuân nước ấm chỉ có vịt biết, thế thì ngỗng không biết hay sao?". Rồi Viên Mai bàn: "Phê bình như thế thì thật là hồ đồ quá. Nếu theo cách ấy mà bàn thơ, thì 300 bài thơ ở Kinh Thi, câu nào cũng sai cả. Như câu "Tại hà chi châu" (ở trên bãi sông) thì các loại chim minh cưu, ban cưu cũng đều ở đó được, hà tất phải là chim thư cưu! Câu "Chỉ vu khâu ngu" (đậu ở góc đồi) thì các loại chim trắng, chim đen đều đậu được cả, hà tất phải nói chim vàng!". Thưa Viên Mai tiên sinh, đã mấy thế thế kỷ rồi mà bọn hồ đồ gàn rở Tây Hà vẫn còn, nhưng không chỉ hồ đồ gàn rở như Tây Hà xưa, mà lối phê bình của họ còn quái đản hơn nhiều - đấy là lối "phê bình chập mạch". Hà Nội, 2-8-2000 N.T.T (141/11-00) |
TRẦN CAO SƠNTriều Nguyễn tồn tại gần 150 năm, kể từ khi Nguyễn Ánh lên ngôi hoàng đế với niên hiệu Gia Long - năm1802, tạo dựng một đế chế tập quyền trên toàn bộ lãnh thổ mà trước đó chưa hề có. Trải qua một thế kỷ rưỡi tồn tại, vinh hoa và tủi nhục, Triều đại Nguyễn là một thực thể cấu thành trong lịch sử Đại Việt. Những cái do triều đình Nhà Nguyễn mang lại cũng rất có ý nghĩa, đó là chấm dứt cuộc nội chiến, tranh giành quyền lực, xương trắng máu đào liên miên mấy thế kỷ, kiến tạo bộ máy quản lý hành chính trung ương tập quyền thống nhất mà Quang Trung - Nguyễn Huệ đã dày công vun đắp gây dựng trước đó. Dân tộc đã phải trải qua những năm tháng bi hùng với nhiều điều nuối tiếc, đáng bàn đáng nói ngay ở chính hôm nay. Song lịch sử là lịch sử, đó là một hiện thực khách quan.
TRẦN HUYỀN SÂMNếu nghệ thuật là một sự ngạc nhiên thì chính tiểu thuyết Thập giá giữa rừng sâu là sự minh định rõ nhất cho điều này. Tôi bàng hoàng nhận ra rằng, luận thuyết: con người cao quý và có tình hơn động vật đã không hoàn toàn đúng như lâu nay chúng ta vẫn tin tưởng một cách hồn nhiên. Con người có nguy cơ sa xuống hàng thú vật, thậm chí không bằng thú vật, nếu không ý thức được giá trị đích thực của Con Người với cái tên viết hoa của nó. Phải chăng, đây chính là lời nói tối hậu với con người, về con người của tác phẩm này?
HOÀNG NGỌC HIẾN ...Từ những nguồn khác nhau: đạo đức học, mỹ học, triết học xã hội-chính trị, triết học xã hội-văn hoá... cảm hứng triết luận trong nghiên cứu, phê bình văn học là nỗ lực vượt lên trên những thành kiến và định kiến hẹp hòi trong sinh hoạt cũng như trong học thuật. Những thành kiến, định kiến này có khi lại được xem như những điều hiển nhiên. Mà đã là “hiển nhiên” thì khỏi phải bàn. Đây cũng là một thói quen khá phổ biến trong nhân loại. Cảm hứng triết luận trong nghiên cứu, phê bình có khi bắt nguồn từ suy nghĩ về chính những điều “hiển nhiên” như vậy...
THÁI DOÃN HIỂUVào đời, Lưu Quang Vũ bắt đầu làm thơ, viết truyện, rồi dừng lại nơi kịch. Ở thể loại nào, tài năng của Vũ cũng in dấu ấn đậm đà làm cho bạn đọc cả nước đi từ ngạc nhiên đến sửng sốt. Thơ Lưu Quang Vũ một thời được lớp trẻ say sưa chép và thuộc. Kịch Lưu Quang Vũ một thời gần như thống trị sân khấu cả nước.
TRẦN THANH ĐẠMTrong lịch sử nước ta cũng như nhiều nước khác, thời cổ - trung đại cũng như thời cận - hiện đại, mỗi khi một quốc gia, dân tộc bị xâm lược và chinh phục bởi các thế lực bên ngoài thì trong nước bao giờ cũng phát sinh hai lực lượng: một lực lượng tìm cách kháng cự lại nạn ngoại xâm và một lực lượng khác đứng ra hợp tác với kẻ ngoại xâm.
ĐỖ LAI THUÝLTS: Trong số tháng 5-2003, Sông Hương đã dành một số trang để anh em văn nghệ sĩ Huế "tưởng niệm" nhà văn Nguyễn Đình Thi vừa qua đời. Song, đấy chỉ mới là việc nghĩa.Là một cây đại thụ của nền văn nghệ cách mạng Việt Nam, Nguyễn Đình Thi toả bóng trên nhiều lĩnh vực nghệ thuật. Bằng chứng qua các bài viết về ông sau đây, Sông Hương xin trân trọng dành thêm trang để giới thiệu sâu hơn, có hệ thống hơn về Nguyễn Đình Thi cùng bạn đọc.
ĐẶNG TIẾN…Nguyễn Đình Thi quê quán Hà Nội, nhưng sinh tại Luang Prabang, Lào, ngày 20/12/1924. Từ 1931 theo gia đình về nước, học tại Hải Phòng, Hà Nội. Năm 1941 tham gia Thanh Niên cưú quốc, 1943 tham gia Văn hóa cứu quốc, bị Pháp bắt nhiều lần. Năm 1945, tham dự Quốc Dân Đại hội Tân Trào, vào Ủy ban Giải phóng Dân tộc. Năm 1946, là đại biểu Quốc hội trẻ nhất, làm Ủy viên Thường trực Quốc hội, khóa I…
HỒ THẾ HÀ Hai mươi lăm năm thơ Huế (1975 - 2000) là một chặng đường không dài, nhưng nó diễn ra trong một bối cảnh lịch sử - thi ca đầy phức tạp. Cuộc sống hàng ngày đặt ra cho thể loại những yêu cầu mới, mà thơ ca phải làm tròn sứ mệnh cao cả với tư cách là một hoạt động nhận thức nhạy bén nhất. Những khó khăn là chuyện đương nhiên, nhưng cũng phải thấy rằng bí quyết sinh tồn của chính thể loại cũng không chịu bó tay. Hơn nữa, đã đặt ra yêu cầu thì chính cuộc sống cũng đã chuẩn bị những tiền đề để thực hiện. Nếu không, mối quan hệ này bị phá vỡ.
JAMES REEVESGần như điều mà tôi hoặc bất kỳ nhà văn nào khác có thể nói về một bài thơ đều giống nhau khi nêu ra ấn tượng về điều gì đấy được in trên giấy. Tôi muốn nhấn mạnh rằng đây không phải là toàn bộ sự thật. Việc in trên giấy thực ra là một bài thơ gián tiếp. Sẽ dễ dàng thấy điều này nếu chúng ta đang nói về hội hoạ hoặc điêu khắc.
NGUYỄN ĐĂNG ĐIỆP...Nguyễn Huy Thiệp không phải là người duy nhất đổi mới phương thức trần thuật. Trước ông đã có Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng... tích cực mở đường. Nhưng phải đến Nguyễn Huy Thiệp thì sự khai phóng về tư tưởng nghệ thuật mới được thể hiện một cách đậm nét. Tất cả được Nguyễn Huy Thiệp kiến tạo qua một trò chơi đầy tính bất ngờ. Giống như người nghệ sĩ ba lê tài năng, Nguyễn Huy Thiệp trình diễn một thế giới đa sắc trên đầu những đầu mũi ngón chân. Những ngón chân ấy bám trụ vào hiện thực một cách tinh diệu, xoay chuyển một cách nhịp nhàng với những vòng quay, những vũ điệu ngôn từ...
PHAN NGỌC THUTrong nền văn học Việt Nam thế kỷ XX, Xuân Diệu (1916-1985) là một trong những nhà thơ nổi tiếng nhất, đồng thời cũng là nhà phê bình văn học kiệt xuất. Từ những bài tranh luận văn học sôi nổi thời Thơ Mới (1932-1945) đến Tiếng thơ (1951), Những bước đường tư tưởng của tôi (1958); từ Phê bình giới thiệu thơ (1960) đến Trò chuyện với các bạn làm thơ trẻ (1961), Dao có mài mới sắc (1963), Lượng thông tin và những kỹ sư tâm hồn ấy (1978), Các nhà thơ cổ điển Việt Nam, tập I (1981), tập II (1982) và Công việc làm thơ (1984)... "chỉ tính riêng các tác phẩm lý luận phê bình, đã có thể gọi Xuân Diệu là một đại gia"(1)
BÙI QUANG TUYẾNThơ mới là một hiện tượng nổi bật của văn học Việt Nam nói chung và thơ ca nói riêng trong thế kỷ XX. Nó vừa ra đời đã nhanh chóng khẳng định vị trí xứng đáng trong nền văn học dân tộc với các "hoàng tử thơ": Thế Lữ, Xuân Diệu, Huy Cận, Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử v..v...
HÀ KHÁNH CHINgày 20 - 3 - 2003, siêu cường lớn nhất mọi thời đại là đế quốc Hoa Kỳ đã mở đầu cuộc chiến tranh kỳ quái nhất trong lịch sử bằng cách tấn công Iraq sau khi đã bắt quốc gia này phải tự phá huỷ vũ khí tự vệ của chính họ. Đó là bài học chưa hề thấy về chút hy vọng cuối cùng mà lương tri nhân loại có thể đòi hỏi. Để có thể hiểu rõ hơn những gì đang xảy ra hôm nay - có lẽ cũng rất cần ôn lại một trong những vấn đề lớn nhất mà loài người có thể nghĩ tới: cuộc chiến tranh Việt Nam đã kết thúc cách đây gần 30 năm.
HOÀNG ĐĂNG KHOA Văn học Việt từ sau 1975, nhất là từ thời kỳ đổi mới, là một quá trình văn học rất phong phú, đa dạng và không ít phức tạp, lại còn đang tiếp diễn. Cuốn sách Văn học Việt Nam sau 1975 - Những vấn đề nghiên cứu và giảng dạy ra đời đáp ứng nhu cầu mang tính thời sự: nhu cầu nhìn nhận, đánh giá một cách khách quan, toàn diện về tiến trình văn học ba mươi năm qua, chuẩn bị cho sự ra đời của những công trình văn học sử và những chuyên khảo về giai đoạn văn học này.
NGUYỄN QUANG HÀTrong đời có những bài thơ người ta quên, mà chỉ nhớ một câu nằm lòng. Bởi đó là những câu thơ thực sự, những câu thơ thi sĩ. Từ xưa đến nay, đã có rất nhiều định nghĩa về thơ: Thơ là tiếng hát của trái tim; Thơ là hạt muối kết tinh của tình cảm; Thơ là phút giây rung động của tâm hồn... Nói chung, những định nghĩa ấy cho ta hiểu rằng ở đâu có được sự rung động của trái tim thì ở đó có thơ.
ĐỖ LAI THUÝPhê bình văn học Việt Nam, sau sự khởi nguồn của Thiếu Sơn với Phê bình và Cảo luận (1933) chia thành hai ngả. Một xuất phát từ Phê bình để trở thành lối phê bình chủ quan ấn tượng với Hoài Thanh và Thi nhân Việt Nam (1942). Lối kia bắt nguồn từ Cảo luận tạo nên phê bình khách quan khoa học với Vũ Ngọc Phan của Nhà văn hiện đại (1942), Trần Thanh Mai của Hàn Mặc Tử (1941), Trương Tửu của Nguyễn Du và Truyện Kiều (1942), Tâm lý và tư tưởng Nguyễn Công Trứ (1945). Sự phân chia này, dĩ nhiên, không phải là hành chính, mà là khoa học, tức sự phân giới dựa trên những yếu tố chủ đạo, nên không phải là không thể vượt biên. Bởi, mọi biên giới đều mơ hồ hơn ta tưởng, nhất là ở khoa học văn chương.
LTS: Marcel Reich-Ranicki, sinh năm 1920, người ở Đức được mệnh danh là "Giáo hoàng văn học", là nhà phê bình văn học đương đại quan trọng nhất của CHLB Đức. "Một lời biện hộ cho thơ" là bài thuyết trình đọc vào ngày 30.11.1980 nhân dịp ra mắt Tập 5 của "Tuyển thơ Frankfurt" trong khuôn khổ chuyên mục thơ của nhật báo "Frankfurter Allgemeine Zeitung" (FAZ) mà tác giả là chủ biên phần văn học từ 1973 đến 1988.Sông Hương xin trân trọng giới thiệu bài "Một lời biện hộ cho thơ" của ông sau đây do dịch giả Trương Hồng Quang thực hiện.
TRẦN HUYỀN SÂMGeorge Sand (1804-1876) là một gương mặt độc đáo trên văn đàn Pháp thế kỷ XIX. Cùng thời với những cây bút nổi tiếng như: A.Lamartine, V.Hugo, A.Vigny, A.Musset... nữ sĩ vẫn tạo cho mình một tầm vóc riêng không chìm khuất. George Sand bước vào thế giới nghệ thuật bằng một thái độ tự tin và một khát vọng sáng tạo mãnh liệt. Với hơn hai mươi cuốn tiểu thuyết đồ sộ, G.Sand đã trở thành một tên tuổi lừng danh ngay từ đương thời. Dĩ nhiên, bà lừng danh còn bởi nhiều mối tình bất tử, trong đó có nhà thơ Pháp nổi tiếng A.Musset và nhạc sĩ thiên tài Chopin người Ba Lan.
PHẠM QUANG TRUNGCó lần, dăm ba người có thiên hướng lý luận chúng tôi gặp nhau, một câu hỏi có thể nói là quan thiết được nêu ra: trong quan niệm văn chương, e ngại nhất là thiên hướng nào? Rất mừng là ý kiến khá thống nhất, tuy phải trải qua tranh biện, không đến nỗi quyết liệt, cũng không phải hoàn toàn xuôi chiều hẳn. Có lẽ thế mới hay!
NGUYỄN HỮU HỒNG MINH1- "Thơ trẻ- Những giá trị mới" là một "mưu mô" của nhà phê bình trẻ Nguyễn Thanh Sơn và nhóm "Văn nghệ mới" (bao gồm Nguyễn Hữu Hồng Minh, Văn Cầm Hải, Phan Huyền Thư, Ly Hoàng Ly, Nguyễn Vĩnh Tiến, Dạ Thảo Phương... và một số người khác) dự tính tập hợp, tuyển chọn 1 tuyển thơ của 10 (hay nhiều hơn) tác giả trẻ từ 30 tuổi trở xuống, xuất hiện trong vòng 3 năm cuối cùng của thế kỉ để trình làng giới thiệu chân dung thế hệ mình.