"Phê bình chập mạch"

09:46 26/05/2010
NGUYỄN TRỌNG TẠO(Nhân đọc một bài viết của Lê Quý Kỳ)
Nghe nói Lê Quý Kỳ vừa in một quyển sách có bài "đánh" tập "Văn chương Cảm & Luận" của tôi, tôi chợt nhớ là cách đây hơn một năm mấy người quản lý ở mấy tờ báo và tạp chí trung ương và địa phương có cho tôi biết là họ nhận được bài viết của Lê Quý Kỳ, nhưng không in được vì văn hóa phê bình của họ không hợp với lối viết đánh đấm quy kết như vậy. Tôi có đề nghị họ cứ in, rồi tôi sẽ đọc, nếu thấy cần nói lại thì tôi sẽ viết bài nói lại. Nhưng rốt cuộc, không thấy báo nào, tạp chí nào in cả. Bây giờ nghe nói Lê Quý Kỳ đã in bài đó vào sách, tôi cũng muốn xem ý kiến của Lê Quý Kỳ về cuốn sách của mình như thế nào, cũng như tôi đã lắng nghe và đọc nhiều bài viết của những người khác về tập "Văn chương Cảm & Luận". Và cuối cùng tôi đã có trong tay quyển "Đường biên văn học" của Lê Quý Kỳ do NXB Văn Học ấn hành, "in xong và nộp lưu chiểu năm 2000", có in bài phê bình tập "Văn chương Cảm & Luận".

Nếu cứ như người ta dùng chữ "đánh" đối với tôi, thì trong tập sách này, Lê Quý Kỳ (gọi tắt là LQK cho tiện) không chỉ "đánh" tôi mà còn "đánh" hàng loạt các nhà văn đồng nghiệp nổi tiếng như Phong Lê, Đỗ Minh Tuấn, Nguyễn Hữu Sơn, Vương Trí Nhàn, Huỳnh Như Phương, Nguyễn Đăng Mạnh, Nguyễn Hà, Vĩnh Quang Lê, Thạch Quỳ, Đông La, Hoàng Như Mai, Ngô Thảo, Nguyễn Hoàng Sơn, Nguyễn Quang Thiều, Nguyễn Thụy Kha... Rồi LQK "đánh" cả những người mà LQK gọi là thầy khi họ phê bình bài viết "Văn học thời đổi mới" của mình là "phủ định hoàn toàn bản lĩnh nền văn học cách mạng trong tiến trình đổi mới chung của đất nước" (Bùi Nguyễn). Đến nổi tiếng như học giả - nhà văn hóa Nguyễn Văn Huyên - cố bộ trưởng Bộ Giáo dục mấy chục năm liền mà LQK cũng không biết: "Nguyễn Văn Huyên là ai, thực lòng, chúng tôi chưa được hân hạnh diện kiến, cho dù chỉ là trên giấy" (tr.164).Táo tợn hơn, LQK còn "đánh" cả Immanuel Kant, là "một trong những nhà tư tưởng lớn nhất của thế kỷ XVIII" tận bên Đức.

Tôi thì không nghĩ là LQK "đánh đấm" gì, mà nếu có "đánh" thì LQK cũng chỉ đánh hơi, đánh mót mà thôi,chứ làm gì có đủ nội công nội lực mà đánh ai. Vả lại, làm phê bình văn học (đúng nghĩa) mà "đánh đấm" thì đâu còn là phê bình văn học. Hơn nữa, nếu bị "đánh", bị "đấm" mà chết cả văn lẫn người thì chả ai dám làm nhà văn. Tôi nghĩ LQK có "năng khiếu phê phán", nhưng có lẽ LQK ảo tưởng về "năng khiếu" của mình nên đã quá đà, vì thế mà khi LQK phê bình, người ta lại thấy LQK "đánh". Có thể IC của LQK chập mạch, hoặc như người ta thường nói là "IC có vấn đề".

Tôi không muốn làm nhà phê bình để phán xét hay "sổ toẹt" toàn bộ quyển "Đường biên văn học" như kiểu LQK đã làm với nhiều quyển sách của đồng nghiệp. Tôi chỉ muốn chỉ ra cách nhìn đầy sai trái, hằn học và vu khống của LQK đối với tập "Văn chương Cảm & Luận" của tôi, ngõ hầu để bạn đọc có thể thấy rõ một kiểu "phê bình chập mạch" là điều có thật. (Tất nhiên là không chỉ "chập mạch" riêng với tôi, như đã nói ở trên).

Bài viết của LQK về tập sách của tôi, có tên là: "Văn chương Cảm & Luận, một bước thụt lùi trong phê bình văn học" (tr.73 - 83). Với LQK, nói cuốn sách của tôi là "một bước thụt lùi" e còn hơi nhẹ, chưa đã, cho nên cuối bài viết LQK đã đẩy nó "thụt lùi" xa hơn nữa với kết luận danh thép: "nếu xem "Văn chương Cảm & Luận" là sự kiện văn học năm 98 thì đó là sự kiện thụt lùi, kéo phê bình văn học trở về thời kỳ trước cả Cách Mạng Tháng Tám" (tr.83). Ô hay, tôi đọc câu kết luận ấy mà cười mỉm với một chút lo ngại, là LQK đã "quá giận mất khôn". Cái sự "chập mạch" này đã làm cho LQK quên mất rằng, phê bình văn học trước Cách Mạng Tháng Tám có những thời kỳ vàng son với những cuộc bút chiến nảy lửa, dựng lên mốc son thế kỷ trong phê bình văn học ta với những tên tuổi lẫy lừng như Hải Triều, Hoài Thanh và nhiều thức giả khác. LQK vô tình hoặc không hiểu phê bình thời ấy nên đã hạ thấp cái mốc son đó xuống để đẩy tôi được sánh vai cùng họ? Như vậy là LQK định vất tôi xuống hố, hóa ra lại vất tôi lên cao quá những gì tôi có. Tôi "hổng dám đâu!"

Suốt cả 10 trang bài viết của LQK có cả loạt những qui sai quái gở. Tôi rất ngại trích dẫn nhiều LQK lẫn trích dẫn của chính mình trong bài viết này, nhưng nếu không trích dẫn thì bạn đọc sẽ không biết được những "qui sai quái gở" ấy như thế nào. Thôi thì đành lòng vậy, LQK viết: "Hồ Phi Phục mới có một tập thơ vỏn vẹn 24 bài, mặc dù ông đã ngấp nghé tuổi về hưu. Vậy mà Nguyễn Trọng Tạo không bỏ sót một từ cao sang, sáng giá nào tâng bốc tác giả này. (...) Và cuối cùng Nguyễn Trọng Tạo đóng vai Đức Giáo Hoàng phong Thánh cho người mình mến mộ: Hồ - Phi - Phục - Thơ" (tr.75). Nói như vậy chẳng hóa ra LQK cấm khen thơ người cao tuổi mà họ chỉ "mới có một tập thơ" hay sao? Tôi nói để LQK rõ là, có khi chỉ cần 1 bài hoặc 1 câu thơ thôi, cũng đáng để cho người đời luận bàn dài dài rồi. Ở ta, tập thơ "Đầu súng trăng treo" của Chính Hữu cũng chỉ có "vỏn vẹn" 20 bài, nhưng nó đã làm cho nhà thơ và những người phẩm bình trở nên nổi tiếng đó thôi. Tập thơ "Sóng bãi ngang" của Hồ Phi Phục là một tập thơ có học, có văn hóa, có trí tuệ và cảm xúc, và có giọng điệu riêng. Tôi tin là LQK không hiểu được loại thơ sâu kín này. Nhưng không hiểu, không biết thì học hỏi để hiểu biết - (Không biết thì hỏi tự ti làm gì!), chứ sao lại nổi đóa bảo tôi "tâng bốc"? Là một người làm thơ, tôi trân trọng các giá trị thơ ca của mọi người. Thích thì khen (hoặc không khen), không thích thì chê (hoặc không chê) cũng chả sao. Đâu cứ phải chê thơ người này người khác thì mình mới có giá, mới là nhà phê bình có bản lĩnh? Và không phải ai cũng dễ dàng thành "Đức Giáo Hoàng" và ai cũng dễ dàng được "phong Thánh" như LQK tưởng tượng ra. Nếu LQK chịu khó đọc lại vài dăm lần nữa đoạn văn của tôi viết về Hồ Phi Phục, chắc có thể hiểu được ý tôi nói: "Anh (Hồ Phi Phục) đã mở cho mình một lối riêng, giống như mỗi người thơ mở lối cho riêng mình. Chính vì điều đó mà tôi rất thú vị khi viết về Hồ - Phi - Phục - Thơ". Ví như, nếu tôi viết về LQK - Phê - Bình thì cũng chỉ là LQK - Phê - Bình mà thôi. Chẳng lẽ viết như thế mà lại gọi là "phong Thánh" sao?

Cũng với cách "hiểu" lạ lùng đó, LQK cho rằng cái công thức "Câu thơ hay = cái hữu hình + động từ + cái vô hình" do tôi phát hiện ra (vì trước tôi chưa ai lập ra công thức này) là phủ nhận công thức ấy trước thời chống Mỹ với câu hỏi "Công thức nêu trên có phải đến các nhà thơ trẻ chống Mỹ mới có?". Quả thật là LQK quá lo xa, khi mình chưa có gì lót bụng lại lo cho tận bên Đức người ta đã ăn chưa. Vâng, ca dao xưa cũng đã có những câu nằm trong công thức ấy (Chim vàng mổ nắng bờ ao), nhưng ở đây tôi chỉ muốn nói, trong thơ Hữu Thỉnh thì mật độ khá dày. LQK thường hay bắt bẻ những cái người ta không nói. Lối "phê bình chập mạch" này quả là kỳ quặc thật.

Tôi vẫn phải trích dẫn của tôi và của LQK để thấy rõ thêm "cách đọc mắt lác"trong khi tiếp xúc với văn bản, nếu không gọi là vu khống, xuyên tạc. Tôi viết: "Sau ngày giải phóng, được đọc những tác giả đồ sộ mà "phía bên kia" dịch, tôi có cảm giác nước ta lúc ấy mới được tiếp xúc với "nửa kia" của thế giới. Ta biết rõ cả hai phe, hơn hẳn những nước bưng bít khác". Đó là một sự thật lịch sử đối với văn học. Nhưng LQK lại vu khống, xuyên tạc là: "Anh thay mặt cả nước cảm ơn phía bên kia". Tôi viết: "Thơ "Việt Cộng" giàu hào khí hùng tráng, hừng hực một ngọn lửa chiến đấu mới, nhưng đơn điệu về phương pháp biểu hiện.Thơ "Sài Gòn" có vẻ "phức tạp" hơn, nhưng nhìn chung sự kiếm tìm vẫn rơi vào vòng luẩn quẩn trong cái cũ ẩm mốc sướt mướt. Điều ấy thật dễ nhận thấy sau khi cuộc chiến tranh tàn khốc đã chấm dứt, chúng ta đọc lại nhau dưới con mắt chân tâm của người trong một nước nhằm gom nhặt lại những giá trị thơ ca còn óng ánh dưới tro than của cuộc chiến đã lụi tàn". LQK mỉa mai: "Anh đòi phải có sự công bằng giữa thơ Việt Cộng và thơ Sài Gòn". Nếu không có sự công bằng về giá trị thơ ca trong một dân tộc thì làm sao chúng ta in lại thơ "Sài Gòn" của Bùi Giáng như đã làm ở NXB Văn Học? Với "sự cố" bài thơ "Tản mạn thời tôi sống", tôi viết: "Còn tôi thì phải ngồi viết Thư Gửi Bộ Chính Trị dài 10 trang nhằm bảo vệ bài thơ của mình". LQK xuyên tạc: "Phải ngồi viết thư gửi Bộ chính trị vì đã trót dại dám Tản mạn thời tôi sống". Nếu không có "cách đọc mắt lác" thì làm sao LQK lại nhìn hai chữ "bảo vệ" thành ra "trót dại" được? Hay là LQK định đem hai chữ "trót dại" để làm quà tặng tôi? Xin cảm ơn, nhưng cũng xin chủ của "trót dại" mang về mà dùng làm của riêng mình.

"Phê bình chập mạch" là loại phê bình "nhìn gà hóa cuốc" do từ cách đọc, do mặc cảm tội lỗi, mặc cảm dốt nát, hoặc do những cơn ác mộng vĩ cuồng trầm cảm mà thành. Khi đã không làm chủ được sự tỉnh táo cần có, nhà phê bình dễ mất bình tĩnh, dẫn tới sự thiếu khách quan, tạo ra cả những cuộc báo động giả và dựng lên cả những hiện trường giả để đánh lừa thiên hạ, nhưng lại luôn cho mình là đấng tối cao ban phát chân lý. Bệnh vĩ cuồng và bệnh trầm cảm là một đôi bạn chí cốt mà ngành tâm thần học đã chỉ ra. Nhưng người bệnh thường không tin mình có bệnh. Cũng như các nhà phê bình chập mạch làm sao có thể tin là mình chập mạch, IC có vấn đề? Có khi họ ngạo mạn lại tưởng người khác ngạo mạn. Tôi viết: "Một thời đằng đẵng, thơ ta được "tiêu chuẩn hóa" trên một phương pháp sáng tác duy nhất là phương pháp hiện thực XHCN, với mục đích duy nhất là phục vụ đám đông quần chúng công nông binh". Điều đó là có thật. Nhưng với kiểu "phê bình chập mạch", LQK dị ứng với từ "đám đông" mà tôi đã dùng đúng nghĩa một khái niệm về số nhiều, và có thể LQK cứ tưởng đấy là một thán từ ám chửi cả họ hàng gia tộc mình nên đã vội vàng lớn tiếng chửi trước: "Anh ngạo mạn gọi quần chúng công nông binh, những người từng làm nên lịch sử là đám đông. Không biết trong cái đám đông đó có hay không những người thân trong họ hàng, gia tộc anh" (tr.82). Nhưng nguy hại hơn là lối phê bình này thường tự cho mình cái quyền qui kết tội chính trị cho bất cứ người nào trái với "quan điểm chập mạch" của họ. Khi tôi viết về thời kỳ đổi mới: "Sự thức ngộ về chính trị, kinh tế và nghệ thuật hẳn đang tạo ra một nền tảng xã hội với những biến động từ thượng tầng đến hạ tầng, từ vĩ mô đến vỉ mô. Đấy là điều đáng mừng cho một thế giới phát triển mà các bộ phận tự điều chỉnh lẫn nhau chứ không phải cái này định ra tuyệt đối cho cái khác (như có thời đã từng nhầm lẫn)". Một nhận định thấm đẫm quan điểm duy vật khách quan, vậy mà LQK tự cho mình cái quyền cao giọng hạch sách tôi: "Các bộ phận nào tự điều chỉnh lẫn nhau, thưa anh? Chính trị, kinh tế và nghệ thuật chắc? Còn lâu mới có cái thứ tự điều chỉnh đó". Tôi biết chắc là không ai hiểu điều tôi nói ngớ ngẩn như LQK đã hiểu. Và LQK nhân danh cái gì mà dám lên giọng hạch sách như vậy? LQK cũng chỉ là LQK mà thôi. Nhưng cái sự "tôi đại diện cho tôi" của LQK đã quá đà, cả gan qui kết tôi đủ các loại tội: "Anh mơ hồ chính trị, hay anh tiếp tục theo chân kẻ khác,đòi cái thứ không bao giờ có, không ở nơi nào có, ấy là sự "bình đẳng" giữa văn nghệ và chính trị". LQK đã nhầm. Nếu tôi "mơ hồ chính trị" thì làm sao trong "Văn chương Cảm & Luận" tôi dám khẳng định rằng: "Tôi đánh giá cao những tác phẩm văn nghệ, bởi nó làm phong phú tâm hồn. Một tác phẩm hay có thể làm rung động toàn thế giới, tạo ra sự rung cảm vượt lên trên các thành kiến giai cấp, dân tộc hay chế độ chính trị khác nhau giữa con người đồng loại". Điều đó ở quá xa tầm hiểu biết của LQK. Nếu LQK hiểu được điều đó thì câu chuyện bất đắc dĩ hôm nay giữa tôi và LQK đã không xảy ra.

Để kết thúc bài viết chưa kết thúc này, tôi muốn nhắc lại "sự cố" bài phê bình sách tôi của LQK sau khi viết ra đã gửi tới nhiều tòa soạn báo nhưng không có báo nào in cả. Trong khi đó, không ít tờ báo đã đăng bài của những người khác viết về "Văn chương Cảm & Luận". Ngay trên tờ báo Văn Nghệ của Hội Nhà văn Việt Nam cũng đã đăng liền mấy bài viết khá dài với những ý kiến khá thống nhất về tập sách này: "Tập sách của Nguyễn Trọng Tạo là một tập sách nghiêm túc, ngay từ thái độ đầu tiên của tác giả đối với thơ" - (Có thể nào thơ bật gốc giữa hồn anh - Thanh Thảo - VN số 25-19.6.1999); Văn chương Cảm & Luận của Nguyễn Trọng Tạo là một cuốn sách mực thước, khoa học và thấm đẫm vị đắm say của một người thơ đã, đang và sẽ lấy thơ làm nghiệp chính của đời mình" (Văn chương Cảm & Luận - Trịnh Thanh Sơn - VN số 34 - 21.8.1999), v.v... Việc khen chê đối với một tác phẩm văn học là bình thường, nhưng sẽ không hề bình thường đối với người khen chê có sẵn bệnh nhiễu tâm loạn trí, mà điển hình là lối "phê bình chập mạch". Cái lối phê bình ấy làm nhiễu loạn, "xú uế" (chữ của LQK) môi trường văn học. Nói về lối phê bình gàn rở này, nhà thơ - nhà phê bình Viên Mai trong tập "Tùy Viên Thi Thoại" nổi tiếng đã kể một câu chuyện thú vị: "Nhiều người khen câu thơ: Xuân giang thủy noãn áp tiên tri (Sông xuân nước ấm vịt biết trước) của Tô Đông Pha là hay. Tây Hà gạt đi mà rằng: Sông xuân nước ấm chỉ có vịt biết, thế thì ngỗng không biết hay sao?". Rồi Viên Mai bàn: "Phê bình như thế thì thật là hồ đồ quá. Nếu theo cách ấy mà bàn thơ, thì 300 bài thơ ở Kinh Thi, câu nào cũng sai cả. Như câu "Tại hà chi châu" (ở trên bãi sông) thì các loại chim minh cưu, ban cưu cũng đều ở đó được, hà tất phải là chim thư cưu! Câu "Chỉ vu khâu ngu" (đậu ở góc đồi) thì các loại chim trắng, chim đen đều đậu được cả, hà tất phải nói chim vàng!".

Thưa Viên Mai tiên sinh, đã mấy thế thế kỷ rồi mà bọn hồ đồ gàn rở Tây Hà vẫn còn, nhưng không chỉ hồ đồ gàn rở như Tây Hà xưa, mà lối phê bình của họ còn quái đản hơn nhiều - đấy là lối "phê bình chập mạch".

Hà Nội, 2-8-2000
N.T.T
(141/11-00)



Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • THÁI DOÃN HIỂUPhàm trần chưa rõ vàng thauChân tâm chẳng biết ở đâu mà tìm.                                VẠN HẠNH Thiền sư

  • HỒ THẾ HÀ  Thi ca là một loại hình nghệ thuật ngôn từ đặc biệt. Nó là điển hình của cảm xúc và tâm trạng được chứa đựng bởi một hình thức - “hình thức mang tính quan niệm” cũng rất đặc biệt. Sự “quái đản” trong sử dụng ngôn từ; sự chuyển nghĩa, tạo sinh nghĩa trong việc sử dụng các biện pháp tu từ; sự trừu tượng hoá, khái quát hoá các trạng thái tình cảm, hiện thực và khát vọng sống của con người; sự hữu hình hoá hoặc vô hình hoá các cảm xúc, đối tượng; sự âm thanh hoá theo quy luật của khoa phát âm thực nghiệm học (phonétique  expérimentale)...đã làm cho thi ca có sức quyến rũ bội phần (multiple) so với các thể loại nghệ thuật ngôn từ khác.

  • LÊ XUÂN LÍTHỏi: Mã Giám Sinh sau khi mua được Kiều, Mã phải đưa Kiều đi ròng rã một tháng tròn mới đến Lâm Tri, nơi Tú Bà đang chờ đợi. Trên đường, Mã đâm thèm muốn chuyện “nước trước bẻ hoa”. Hắn nghĩ ra đủ mưu mẹo, lí lẽ và hắn đâm liều, Nguyễn Du viết:              Đào tiên đã bén tay phàm              Thì vin cành quít, cho cam sự đờiĐào tiên ở đây là quả cây đào. Sao câu dưới lại vin cành quít? Nguyễn Du có lẩm cẩm không?

  • CHU ĐÌNH KIÊN1. Có những tác phẩm người đọc phải thực sự “vật lộn” trên từng trang giấy, mới có thể hiểu được nhà văn muốn nói điều gì. Đó là hiện tượng “Những kẻ thiện tâm” (Les Bienveillantes) của Jonathan Littell. Một “cas” được xem là quá khó đọc. Tác phẩm đã đạt hai giải thưởng danh giá của nước Pháp là: giải Goncourt và giải thưởng của Viện hàn lâm Pháp.

  • PHONG LÊSinh năm 1893, Ngô Tất Tố rõ ràng là bậc tiền bối của số rất lớn, nếu không nói là tất cả những người làm nên diện mạo hiện đại của văn học Việt Nam thời 1932-1945. Tất cả - gồm những gương mặt tiêu biểu trong phong trào Thơ mới, Tự Lực văn đoàn và trào lưu hiện thực đều ra đời sau ông từ 10 đến 20 năm, thậm chí ngót 30 năm.

  • HẢI TRUNGHiện tượng ngôn ngữ lai tạp hay gọi nôm na là tiếng bồi, tiếng lơ lớ (Pidgins và Creoles) được ngành ngôn ngữ học đề cập đến với những đặc trưng gắn liền với xã hội. Nguồn gốc ra đời của loại hình ngôn ngữ này có nhiều nét khác biệt so với ngôn ngữ nói chung. Đây không chỉ là một hiện tượng cá thể của một cộng đồng ngôn ngữ nào, mà nó có thể phát sinh gắn liền với những diễn biến, những thay đổi, sự phát triển của lịch sử, xã hội của nhiều dân tộc, nhiều quốc gia khác nhau.

  • BÙI NGỌC TẤN... Đã bao nhiêu cuộc hội thảo, bao nhiêu cuộc tổng kết, bao nhiêu cuộc thi cùng với bao nhiêu giải thưởng, văn chương của chúng ta, đặc biệt là tiểu thuyết vẫn chẳng tiến lên. Rất nhiều tiền của bỏ ra, rất nhiều trí tuệ công sức đã được đầu tư để rồi không đạt được điều mong muốn. Không có được những sáng tác hay, những tác phẩm chịu được thử thách của thời gian. Sự thất thu này đều đã được tiêu liệu.

  • NGUYỄN HUỆ CHICao Bá Quát là một tài thơ trác việt ở nửa đầu thế kỷ XIX. Thơ ông có những cách tân nghệ thuật táo bạo, không còn là loại thơ “kỷ sự” của thế kỷ XVIII mà đã chuyển sang một giọng điệu mới, kết hợp tự sự với độc thoại, cho nên lời thơ hàm súc, đa nghĩa, và mạch thơ hướng tới những đề tài có ý nghĩa xã hội sâu rộng.

  • NGUYỄN TRƯƠNG ĐÀNĐã nhiều sử liệu viết về cuộc xử án vua Duy Tân và các lãnh tụ khởi xướng cuộc khởi nghĩa bất thành tháng 5-1916, mà trong đó hai chí sĩ Thái Phiên - Trần Cao Vân là hai vị đứng đầu. Tất cả các sử liệu đều cho rằng, việc hành hình đối với Thái Phiên, Trần Cao Vân, Tôn Thất Đề, Nguyễn Quang Siêu diễn ra vào sáng ngày 17-5-1916. Ngay cả trong họ tộc hai nhà chí sĩ, việc ghi nhớ để cúng kỵ, hoặc tổ chức kỷ niệm cũng được tính theo ngày như thế.

  • PHONG LÊBây giờ, sau 60 năm - với bao là biến động, phát triển theo gia tốc lớn của lịch sử trong thế kỷ XX - từ một nước còn bị nô lệ, rên xiết dưới hai tầng xiềng xích Pháp-Nhật đã vùng dậy làm một cuộc Cách mạng tháng Tám vĩ đại, rồi tiến hành hai cuộc kháng chiến trong suốt 30 năm, đi tới thống nhất và phát triển đất nước theo định hướng mới của chủ nghĩa xã hội, và đang triển khai một cuộc hội nhập lớn với nhân loại; - bây giờ, sau bao biến thiên ấy mà nhìn lại Đề cương về văn hoá Việt Nam năm 1943(1), quả không khó khăn, thậm chí là dễ thấy những mặt bất cập của Đề cương... trong nhìn nhận và đánh giá lịch sử dân tộc và văn hoá dân tộc, từ quá khứ đến hiện tại (ở thời điểm 1943); và nhìn rộng ra thế giới, trong cục diện sự phát triển của chủ nghĩa tư bản hiện đại; và gắn với nó, văn hoá, văn chương - học thuật cũng đang chuyển sang giai đoạn Hiện đại và Hậu hiện đại...

  • TƯƠNG LAITrung thực là phẩm chất hàng đầu của một người dám tự nhận mình là nhà khoa học. Mà thật ra, đâu chỉ nhà khoa học mới cần đến phẩm chất ấy, nhà chính trị, nhà kinh tế, nhà văn hoá... và bất cứ là "nhà" gì đi chăng nữa, trước hết phải là một con người biết tự trọng để không làm những việc khuất tất, không nói dối để cho mình phải hổ thẹn với chính mình. Đấy là trường hợp được vận dụng cho những người chưa bị đứt "dây thần kinh xấu hổ", chứ khi đã đứt mất cái đó rồi, thì sự cắn rứt lương tâm cũng không còn, lấy đâu ra sự tự phản tỉnh để mà còn biết xấu hổ. Mà trò đời, "đã trót thì phải trét", đã nói dối thì rồi cứ phải nói dối quanh, vì "dại rồi còn biết khôn làm sao đây".

  • MÃ GIANG LÂNVăn học tồn tại được nhiều khi phụ thuộc vào độc giả. Độc giả tiếp nhận tác phẩm như thế nào? Tiếp nhận và truyền đạt cho người khác. Có khi tiếp nhận rồi nhưng lại rất khó truyền đạt. Trường hợp này thường diễn ra với tác phẩm thơ. Thực ra tiếp nhận là một quá trình. Mỗi lần đọc là một lần tiếp nhận, phát hiện.

  • HÀ VĂN LƯỠNGTrong dòng chảy của văn học Nga thế kỷ XX, bộ phận văn học Nga ở hải ngoại chiếm một vị trí nhất định, tạo nên sự thống nhất, đa dạng của thế kỷ văn học này (bao gồm các mảng: văn học đầu thế kỷ, văn học thời kỳ Xô Viết, văn học Nga ở hải ngoại và văn học Nga hậu Xô Viết). Nhưng việc nhận chân những giá trị của mảng văn học này với tư cách là một bộ phận của văn học Nga thế kỷ XX thì dường như diễn ra quá chậm (mãi đến những thập niên 70, 80 trở đi của thế kỷ XX) và phức tạp, thậm chí có ý kiến đối lập nhau.

  • TRẦN THANH MẠILTS: Nhà văn Trần Thanh Mại (1908-1965) là người con xứ Huế. Tên ông đã được đặt cho một con đường ở đây và một con đường ở thành phố Hồ Chí Minh. Trần Thanh Mại toàn tập (ba tập) cũng đã được Nhà xuất bản Văn học phát hành năm 2004.Vừa rồi, nhà văn Hồng Diệu, trong dịp vào thành phố Hồ Chí Minh dự lễ kỷ niệm 100 năm ngày sinh nhà văn Trần Thanh Mại, đã tìm thấy trang di cảo lưu tại gia đình. Bài nghiên cứu dưới đây, do chính nhà văn Trần Thanh Mại viết tay, có nhiều chỗ cắt dán, thêm bớt, hoặc mờ. Nhà văn Hồng Diệu đã khôi phục lại bài viết, và gửi cho Sông Hương. Chúng tôi xin cám ơn nhà văn Hồng Diệu và trân trọng giới thiệu bài này cùng bạn đọc.S.H

  • TRẦN HUYỀN SÂMLý luận văn học và phê bình văn học là những khái niệm đã được xác định. Đó là hai thuật ngữ chỉ hai phân môn trong Khoa nghiên cứu văn học. Mỗi khi khái niệm đã được xác định, tức là chúng đã có đặc trưng riêng, phạm trù riêng. Và vì thế, mục đích và ý nghĩa của nó cũng rất riêng.

  • TRẦN THÁI HỌCCó lẽ chưa bao giờ các vấn đề cơ bản của lý luận văn nghệ lại được đưa lên diễn đàn một cách công khai và dân chủ như khi đất nước bước vào thời kỳ đổi mới. Vấn đề tuyên truyền trong nghệ thuật tuy chưa nêu thành một mục riêng để thảo luận, nhưng ở nhiều bài viết và hội nghị, chúng ta thấy vẫn thường được nhắc tới.

  • NGUYỄN TRỌNG TẠO...Một câu ngạn ngữ Pháp nói rằng: “Khen đúng là bạn, chê đúng là thầy”. Câu ngạn ngữ này đúng trong mọi trường hợp, và riêng với văn học, Hoài Thanh còn vận thêm rằng: “Khen đúng là bạn của nhà văn, chê đúng là thầy của nhà văn”...

  • BẢO CHI                 (lược thuật)Từ chiều 13 đến chiều 15-8-2003, Hội nghị Lý luận – Phê bình văn học (LL-PBVH) toàn quốc do Hội Nhà văn Việt Nam tổ chức đã diễn ra tại khu nghỉ mát Tam Đảo có độ cao 1.000 mét và nhiệt độ lý tưởng 23oc. Đây là hội nghị nhìn lại công tác LL-PBVH 28 năm qua kể từ ngày đất nước thống nhất và sau 54 năm Hội nghị tranh luận Văn nghệ tại Việt Bắc (1949). Gần 200 nhà LL-PB, nhà văn, nhà thơ, nhà báo và khách mời họp mặt ở đây đã làm nóng lên chút đỉnh không khí ôn hoà của xứ lạnh triền miên...

  • ĐỖ LAI THÚY                Văn là người                                  (Buffon)Cuốn sách thứ hai của phê bình văn học Việt Nam, sau Phê bình và cảo luận (1933) của Thiếu Sơn, thuộc về Trần Thanh Mại (1911 - 1965): Trông dòng sông Vị (1936). Và, mặc dù đứng thứ hai, nhưng cuốn sách lại mở đầu cho một phương pháp phê bình văn học mới: phê bình tiểu sử học.

  • ĐẶNG TIẾNThuật ngữ Thi Học dùng ở đây để biểu đạt những kiến thức, suy nghĩ về Thơ, qua nhiều dạng thức và trong quá trình của nó. Chữ Pháp là Poétique, hiểu theo nghĩa hẹp và cổ điển, áp dụng chủ yếu vào văn vần. Dùng theo nghĩa rộng và hiện đại, theo quan điểm của Valéry, được Jakobson phát triển về sau, từ Poétique được dịch là Thi Pháp, chỉ chức năng thẩm mỹ của ngôn từ, và nới rộng ra những hệ thống ký hiệu khác, là lý thuyết về tính nghệ thuật nói chung. Thi Học, giới hạn trong phạm vi thi ca, là một bộ phận nhỏ của Thi Pháp.