"Giọt nước cành sen"(1)

11:02 23/01/2015

CAO HUY THUẦN

Từ trong mênh mông, một sợi mưa rơi vào lá sen. Nước vốn không có hình. Nằm trong lá, nước tròn như một viên ngọc, tròn như một hạt lệ, tròn như một thủy chung. Gió thoảng qua, lá sen lay động, nước rơi không để lại một dấu vết, rơi như chưa bao giờ có, rơi như một hững hờ.

Ảnh: internet

Câu chuyện đạm bạc chỉ có thế. Chỉ có thế, câu chuyện hội ngộ giữa một trái tim đa tình với một chữ không tinh quái.

Giọt nước cành sen không phải là một tập thơ đạo. Những ý thiền đi vào thơ như hương sen thoảng mặt hồ. Bao nhiêu cảnh trong thơ là bấy nhiêu tứ thiền thấp thoáng: trong tiếng gió hát muôn đời trên sóng, nơi mây trắng bay tự nghìn thu, giữa tiếng sóng vỗ rì rầm từ muôn xưa, nơi ánh trăng đùa nghịch với bờ ao từ bao thế kỷ... Nhà thơ không cần nhiều lời để nói về chữ tâm: chỉ một ánh sao lóe lên cũng đủ làm sáng trời đêm, chỉ một tiếng chim kêu cũng đủ làm hoa nở thắm :

Chợt con khuyên hết ngoài hiên trúc
Nên đóa hoàng mai nở diệu thường


Chữ tâm bừng sáng đó, một thiền sư nổi tiếng ngày xưa đã diễn tả trong một câu thơ nổi tiếng :

Nhất điểm xuân quang xứ xứ hoa

Chỉ cần một hơi ấm mùa xuân thoảng qua, muôn hoa nở rộ khắp nơi khắp chốn. Đó là trạng thái liễu ngộ bàng bạc trong Giọt nước cành sen.

Có khi, đó là sự tương quan giữa Một và Vô Cùng, như trong vô cùng tiếng sóng của muôn ngàn thế kỷ vẫn nghe được dư âm của một tiếng rì rầm :

Ta hát một mình trong tiếng sóng
Nghe từng cơn sóng vỗ trong ta


Có khi, đó là câu hỏi vu vơ về tâm thức, câu hỏi đặt ra giữa trời đất và người, giữa bao la vô ý thức và ý thức về bao la.

Ta trong trời đất bao la
Mà bao la đó trong ta có gì
?

Có khi đó là một "cái gì" không nói được, không nghĩ được, "bất khả tư nghì", như ánh sao chớp lên một tia sáng rồi biến mất trong gió đêm:

Có gì lấp lánh cùng sao biếc
Với gió qua thềm khuya ngát hương


Cũng có khi cái "ta" muôn thuở, cái "ta" vắng lặng, thường còn thấp thoáng hiện ra sau bao nhiêu bối rối của giao động như bóng đêm còn mãi trong đáy nước lao xao :

Ai khỏa nước tan nhòa bóng lạnh
Nước trôi còn lại những đêm thâu


Và có khi chẳng có gì cả, chỉ một hư không huyền nhiệm :

Sao nghe thanh thoát ngoài hiên vắng
Một tiếng hư không sáng lẽ thường


Tất nhiên, một trái tim đa tình không dễ gì học được chữ giác. Thói thường, nhiều tình thì nhiều duyên, nhiều nợ. Ở đây, người nhiều tình thì lại không có nợ, không có duyên, chỉ có đơn côi. Dù vào tận trong mây, dù vào tận cuối rừng nguyên thủy, dù vào tận đáy giấc chiêm bao, một nửa vẫn không tìm ra một nửa, nửa đời vẫn tương tư nửa đời, nửa thân vẫn lạnh lùng nửa thân, nửa ta soi nước vẫn không thấy bóng của mình. Trăng non đi tìm trăng khuyết còn gặp nhau đêm rằm. Ta với mình bao giờ trùng phùng với nhau trong một chữ Ai!

Giọt nước cành sen, vì vậy, còn là tiếng thở dài của một chiếc bóng côi cút, của một tâm hồn bơ vơ.

Bơ vơ như chiếc nến trong đêm :

Có người thắp nến bơ vơ

Bơ vơ như nhịp cầu giữa bèo trôi nước chảy :

Nhịp cầu lắng những bơ vơ
Bèo trôi nước chảy nửa bờ hoàng hôn


Bơ vơ với gió đêm:

Gió mang thao thức vào đêm âm thầm

Bơ vơ với trăng xế :

Về đây đời lạc bóng dài
Phiêu diêu trăng xế lạnh ngoài hiên sương


Nhưng phiền thì có phiền mà lụy thì không lụy. Nước mắt khô, nụ cười nở. Nở tận mây cao :

Một mình đi giữa phù vân
Nụ cười vẫn ngát mấy tầng mây cao


Nở ngút ngàn sóng :

Nụ cười phơi phới trên ngàn sóng
Như đóa phù dung giữa mộng trường


Nở thiên thu bất tận :

Gió đi qua mãi trong đời
Lòng ai vẫn ngát nụ cười thiên thu


Giao động thoảng qua, an nhiên trở lại :

An nhiên ngày lại qua ngày
Mỉm cười như vẫn thơ ngây thuở nào


An nhiên như mặt hồ hứng chiếc lá rụng :

Có thấy gì khi chiếc lá bay
An nhiên kìa mặt nước vơi đầy


An nhiên dù chớp biển mưa nguồn :

Dù xa trời có chuyển mưa
Xem như giọt nước khẽ đùa ánh trăng


Ai dám bảo sóng làm trăng vỡ? Đâu có, nguyệt nhà thơ vẫn tròn:

Dù trăng có vỡ làm bao mảnh
Vẫn thấy lòng ta bóng nguyệt tròn


Ai dám bảo mưa hoài chẳng tạnh. Đâu có, mưa tạnh rồi trăng sáng :

Mưa tạnh bao giờ... trăng chợt lên
Hương lan như thoảng ngát bên thềm
Chuông chùa văng vẳng trong thanh tịnh
Ai thấy vầng trăng sáng suốt đêm?


Giọt nước cành sen là câu chuyện trở về với Tâm.

Câu chuyện tạnh mưa trăng sáng.

***

Người đọc có thể nghĩ rằng một vài chỗ trong tập thơ có thể điêu luyện hơn thế nữa. Người phê bình cũng có thể tìm thấy vài từ, vài ý, vài hình ảnh của bài thơ này hiện ra trong bài thơ kia. Nhưng nét tài hoa kia, và tài hoa một cách tự nhiên, không trau chuốt vẫn là điểm nổi bật của tập thơ. Tài hoa nhất có lẽ là những bài thơ Đường. Ở đây, nhà thơ vừa có cái trong phong thái chững chạc, ung dung của người bạc tóc, vừa có cái duyên dáng mát rượi của độ xuân thì. Bài thơ đi rất êm, rất nhẹ, và hai câu kết bao giờ cũng mở ra như hai cánh cửa giữa vùng cao rộng, bát ngát, mênh mông của thi tứ :

Có phải người say bên án sách
Mà quên tiếng gọi vút trời xanh...


Mà không phải chỉ trong những bài thơ Đường. Câu cuối của bài thơ nào cũng vậy, kể cả những bài thơ ngắn bốn câu:

Đồi xa nắng chếch bên rào
Có người mang nắng đi vào hoàng hôn.


Trong bài "Tùng hạ vấn đồng tử" của Giả Đạo thời Đường, có người khách dừng chân dưới gốc tùng hỏi chú tiểu đồng xem thầy của chú có nhà không. Chú chỉ tay lên núi: "Thầy tôi đi hái thuốc trong núi kia, quanh quất đấy thôi, nhưng mây che kín núi, không biết thầy tôi ở chốn nào".

Chỉ tại thử sơn trung
Vẫn thâm bất tri xứ


Tôi có cảm tưởng thấy ngón tay nhỏ chỉ lên núi cao trong tập thơ phong nhã này.

C.H.T
(SH33/10-88)


------------
(1) Bài tựa tập thơ "Giọt nước cành sen" của Thân Thị Ngọc Quế, Việt kiều ở Mỹ, do tác giả xuất bản.






 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NGUYỄN PHÚC VĨNH BATrong cuốn “Hồ sơ văn hoá Mỹ”, nhà nghiên cứu Hữu Ngọc có giới thiệu một số nhà thơ cổ điển Mỹ như Walt Whitman, Edgar A. Poe, Henri W. Longfellow… Về Longfellow, ông Hữu Ngọc viết:“Nếu không đòi hỏi tâm lí và tư duy sâu sắc thì có thể tìm ở thơ Longfellow sự trong sáng, giản dị, cảm xúc nhẹ nhàng, bâng khuâng, hình ảnh duyên dáng và âm điệu du dương. Ông làm thơ về lịch sử và truyền thuyết, đất nước và thiên nhiên, ông ca ngợi tình thương, lòng tốt, chịu đựng cuộc đời.

  • LÊ HUỲNH LÂMTừ “Vọng sông quê” đến “Mang” của Nhà xuất bản Trẻ, rồi “Gửi thiên thần” của Nhà xuất bản CAND và bây giờ là “Đồng hồ một kim” của Nhà xuất bản Văn Học” được gửi đến bạn đọc, Phan Trung Thành đã khẳng định được gương mặt thơ của thế hệ 7.X. Ở đây, số lượng tác phẩm không định hình nên một gương mặt thơ, mà chính những câu chữ đã vẽ lên chân dung một nhà thơ.

  • TIỂU VĂNGiữa tháng 11 năm 2008, tôi được dự một buổi hội thảo nói chuyện chuyên đề về sách tại Zen Café (phố Ngọc Hà). Đây là buổi nói chuyện của tác giả - dịch giả Lê Thị Hiệu, với bút danh thường gọi là Hiệu Constant, giới thiệu về tác phẩm đầu tay của chị - tiểu thuyết Côn trùng. Buổi nói chuyện nằm trong chương trình “Tôn vinh Văn hóa Đọc” do Công ty Truyền thông Hà Thế khởi xướng và tổ  chức.

  • HÀ KHÁNH LINHHồng Nhu truyện ngắn, Hồng Nhu thơ… Lần đầu tiên nhìn thấy Hồng Nhu xuất hiện tiểu thuyết tôi thực lòng rất mừng. Tuy nhiên đọc gần hết hai chương đầu nỗi lo cứ cồm cộm lên trong tâm thức nhưng chính gần cuối chương II cái chất tiểu thuyết mới bắt đầu hé lộ ra, để rồi từ đó lôi cuốn người đọc cho đến hết truyện.

  • LÊ QUANG TƯCông trình Văn học Việt Nam thế kỷ X-XIX (những vấn đề lý luận và lịch sử)(1) được biên soạn bởi Trần Ngọc Vương (chủ biên), Trần Nho Thìn, Nguyễn Văn Thịnh, Trần Nghĩa, Đoàn Lê Giang, Kiều Thu Hoạch, Cao Tự Thanh..., do nhà xuất bản Giáo dục in năm 2007, dày 912 trang.

  • LÝ HOÀI XUÂN(Nhân đọc tập thơ “Mẹ!” của Văn Lợi – NXB Thuận Hoá, 2006)

  • TRẦN HUYỀN SÂMNhư con thú hoang ôm vết thương lòng đi tìm nơi trú ẩn, gương mặt người thiếu phụ mang nỗi buồn tiền kiếp - tự ngàn xưa: Người thiếu phụ có đôi mắt buồnĐi lang thang trong chiều mùa hạNỗi cô đơn lây sang cả đá...

  • MAI VĂN HOANNgười đời thì lập ngôn còn Nhụy Nguyên thì “lập thiền”. Thú thực tôi chưa hiểu hết dụng ý của Nhụy Nguyên khi đặt tên cho tập thơ đầu tay của mình là Lập thiền. Bản thân từ Hán Việt vốn ẩn chứa nhiều tầng nghĩa.

  • BỬU NAMI. Văn học Mêhicô ở thế kỷ XX, có lẽ được xem như một nền văn học năng động và sáng tạo nhất Châu Mỹ La tinh. Táo bạo trong những tìm tòi mới, linh hoạt uyển chuyển trong cách diễn tả, đa dạng phong phú trong cách sử dụng các cấp độ ngôn ngữ, sáng suốt trong cách chọn lựa đề tài, hình thức, ngôn ngữ: tiểu thuyết và truyện ngắn ở Mêhicô tạo được những không gian sáng tạo và đổi mới một cách tự do.

  • NGUYỄN TÝ51 bài thơ cùng 8 ca khúc được phổ thơ của Trần Hữu Lục vỏn vẹn 120 trang qua tập thơ “Vạn Xuân” (*) mới nhất của anh, người đọc đồng cảm cùng tác giả- một người con xứ Huế tha phương.

  • NGÔ MINHNhà xuất bản Văn nghệ vừa ấn hành tập ký “Phùng Quán- Ba phút sự thật”, tập hợp mười lăm bài viết, ký thấm đẫm chất nhân văn rất của cố nhà thơ nổi tiếng Phùng Quán.

  • NGUYỄN ĐÔNG HIẾUTrong cuộc đời làm xuất bản của mình, Phùng Quán là một nhà văn đã để lại cho tôi những ấn tượng mạnh mẽ, sâu sắc, khó quên.

  • PHẠM PHÚ PHONG Tập nhật ký Tây tiến viễn chinh (do Đặng Vương Hưng biên soạn và giới thiệu, Phạm Tiến Duật viết lời bạt, Nxb Hội Nhà văn, 2005) của liệt sĩ Trần Duy Chiến, bắt đầu viết từ ngày 7.10.1978, khi anh mới nhập ngũ, đến ngày 25.6.1980, trước khi anh hy sinh gần một tháng.

  • BỬU NAM giới thiệu1. Cuốn tiểu thuyết best - seller “Hồi ức của một Geisha” của nhà văn Arthur Golden vừa được dựng thành phim. Nhà văn Arthur Golden đã dành cả 40 năm cuộc đời mình tìm tư liệu về cuộc sống của những nàng Geisha ở Nhật Bản, để sáng tạo nên một cuốn tiểu thuyết Best - Seller giữ vị trí được bạn đọc thế giới yêu thích lâu dài trên danh mục những tiểu thuyết bán chạy nhất do báo New York Times bình chọn.

  • HOÀNG VŨ THUẬT(Đọc tập thơ Lệ Thuỷ mút mùa của Ngô Minh)Nói đến Ngô Minh là nói đến thế - giới - cát. Cát trong suy nghĩ của Ngô Minh như thứ ngôn ngữ minh triết về đời sống con người. Là vật chất, nhưng không giản đơn như mọi thứ vật chất. Cát có thể nóng như lửa, lại mềm mại dịu êm dưới chân người. Li ti từng hạt nhỏ, vậy mà bên nhau cát xây nên luỹ nên thành án ngữ dọc biển bờ Tổ quốc. Cát hiền lành trong sạch, khi giận giữ có thể biến thành những cơn bão khủng khiếp.

  • BÙI ĐỨC VINH(Nhân đọc tập thơ “RỖNG NGỰC” của Phan Huyền Thư, NXB Văn học 2005)

  • PHAN THUẬN AN"Khóc Bằng phi" hay "Khóc Thị Bằng" là một bài thơ nổi tiếng xưa nay, nhưng tác giả của nó là ai thì chưa được xác minh một cách cụ thể. Người ta thường cho rằng bài thơ trữ tình này là do vua Tự Đức (1848-1883) làm ra để thương tiếc một bà cung phi tên là Thị Bằng còn rất trẻ đẹp nhưng chết sớm.

  • HÀ VĂN LƯỠNGTrong văn học Nga thế kỷ XX, Aleksandr Solzhenitsyn là một trong những nhà văn lớn, nổi tiếng có nhiều đóng góp cho nền văn học Nga trên nhiều phương diện, một người suốt đời tận tụy và kiên trì đấu tranh cho sự chiến thắng của nghệ thuật, của sự thật đối với những cái xấu, cái ác. Nhưng ông cũng là một nhà văn có cuộc đời đầy thăng trầm, bất hạnh và phức tạp.

  • BÙI LINH CHIAnnemarie Selinko (1914-1986) là một nhà báo, nhà tiểu thuyết gặt hái được một số thành công trong sự nghiệp tại Tổ quốc của mình là nước Áo. Trong những tháng ngày chạy nạn 1943, bà đã cùng chồng đến Thụy Điển, đã chứng kiến những làn sóng người tị nạn phải rời bỏ quê hương trước ý chí ghê gớm của kẻ độc tài khát máu Himler gây ra.

  • TRẦN HUYỀN SÂM1. Nobel là một giải thưởng danh giá nhất, nhưng cũng chứa đựng nhiều nghịch lý nhất trong tất cả các giải thưởng. Riêng giải Nobel văn học, bao giờ cũng gây tranh cãi thú vị. Bởi vì, Hội đồng Viện Hàn Lâm Thụy Điển phải trung thành với lời di chúc của Alffred Nobel: trao tặng giải thưởng cho người sáng tạo ra tác phẩm văn học xuất sắc nhất, có khả năng định hướng lý tưởng cho nhân loại.