DƯƠNG PHƯỚC THU (Sưu tầm, giới thiệu)
LGT: Đã từng có một cuộc xướng họa thơ trên báo với số lượng người tham gia đông kỷ lục; 1324 lượt tác giả với 1699 bài họa. Dưới đây, Sông Hương xin giới thiệu lại Vườn thơ đoàn kết do Báo Cứu Quốc - nay là Báo Đại Đoàn Kết tổ chức xướng họa thơ cách đây đã 43 năm.
Bộ trưởng Phan Anh - Ảnh: wiki
Theo Báo Cứu Quốc, tại Hội nghị Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam lần thứ 21, họp ngày 6/3/1971, đã quyết định triệu tập Đại hội Mặt trận Tổ quốc Việt Nam vào cuối năm đó. Nhân dịp này, Bộ trưởng Phan Anh, Ủy viên Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, đã làm bài thơ xướng theo thể Đường luật in trên Báo Cứu Quốc số 3529, ra ngày 21/3/1971. Bài thơ xướng như sau:
CÂY CAO BÓNG CẢ
Cây cao bóng cả ấy ai trồng?
Ngọn vút trời cao, gốc biển Đông
Cành, lá đỏ tươi hoa chiến sĩ
Vóc, mình vững chắc rễ công nông
Xua tan giông tố, chùn Tây, Mỹ
Đổi mới non sông, thắm Lạc Hồng
Điệp điệp trùng trùng che đất nước
Cây đây, rừng đó, Bác ta trồng.
Để lập thành tích chào mừng Đại hội, trên cơ sở bài thơ CÂY CAO BÓNG CẢ của Bộ trưởng Phan Anh, Báo Cứu Quốc mở cuộc họa thơ với mục đích ca ngợi Mặt trận đã đoàn kết các tầng lớp, các dân tộc trong cả nước một lòng chống ngoại xâm và nhằm động viên nhân dân ta thực hiện lời căn dặn của Bác Hồ: “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành công”.
Cuộc họa bài thơ CÂY CAO BÓNG CẢ trên Báo Cứu Quốc bắt đầu từ ngày 21/3/1971 và kết thúc trong dịp Đại hội lần thứ III, họp từ 14 đến ngày 17/12/1971, được người yêu thơ các giới hưởng ứng tham gia. (Những địa danh và tên tác giả trong bài này đều chép lại thời điểm năm 1972).
Tính từ thời điểm phát động cho đến khi kết thúc, đã có 1.324 lượt tác giả, gửi tới Tòa soạn 1.699 bài (có tác giả gửi nhiều bài). Số tác giả nữ có 117 người.
Các tác giả tham gia họa thơ thuộc nhiều tầng lớp trong xã hội và nhiều lứa tuổi khác nhau, từ người nhiều tuổi nhất là cụ Dương Học Hải, 89 tuổi (ở Đống Đa, Hà Nội), đến các cháu thiếu niên học sinh phổ thông, các cụ phụ lão, xã viên các HTX nông nghiệp, thủ công nghiệp, các nhà trí thức, giáo sư, bác sĩ, kỹ sư, giáo viên các cấp, cán bộ giảng dạy và học sinh đại học, công nhân xí nghiệp, nhà máy hầm mỏ, đồng bào theo đạo Thiên Chúa, các vị linh mục, các vị hòa thượng, thượng tọa, mục sư đạo tin lành, tu sĩ, cán bộ nhiều cơ quan trung ương và địa phương, những người làm nghề cá thể, chiến sĩ và sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam, các cụ lang Đông y, các văn nghệ sĩ chuyên nghiệp, Việt kiều, lưu học sinh và cán bộ đang công tác ở nước ngoài, cả chiến sĩ đang chiến đấu trên tiền tuyến lớn v.v.
Hưởng ứng việc làm vô cùng ý nghĩa của Cứu Quốc, lúc bấy giờ dù rất bận công tác ở Pháp, Bộ trưởng Xuân Thủy cũng đã gửi về Tòa soạn bài thơ họa:
“Muôn năm ơn Bác khéo vun trồng
Cây cả nên rừng rợp biển Đông
Cành Bắc, cành Nam, hoa Thống Nhất
Ngọn gươm, ngọn giáo gốc công nông
Xâm lăng quét sạch, chồi xanh thắm
Xã hội vươn cao, trái đỏ hồng
Đoàn kết, đẹp thay Vườn Tổ quốc!
Muôn năm ơn Bác khéo vun trồng”.
Tòa soạn đã cố gắng dành chỗ công bố được nhiều bài thơ họa, để nhiều người nói lên được tấm lòng của mình đón mừng Đại hội Mặt trận. Nhưng do số trang báo có hạn, cho nên Cứu Quốc cũng mới chỉ đăng được 304 bài, tức ngót một phần năm số bài mà Tòa soạn nhận được…
Cuộc họa thơ đón mừng Đại hội ở nhiều nơi đã thành một sinh hoạt tập thể. Các cụ ở các tổ phụ lão những khu phố Hoàn Kiếm, Ba Đình, Hai Bà Trưng, Đống Đa… ở Hà Nội đã đóng góp một số khá lớn trong số 390 bài của các tác giả ở Thủ đô. Các cụ ở Hải Phòng cũng đóng góp với một tỷ lệ như vậy trong số 153 bài của Hải Phòng v.v. Riêng các tác giả là dân tộc Tày ở tỉnh Cao Bằng đã góp 93 bài… Công đoàn Thư viện Khoa học xã hội ở Hà Nội đã có sáng kiến chép bài thơ xướng CÂY CAO BÓNG CẢ rồi dán lên báo tường để mọi người xem. Sau đó, một số anh chị em ở đó đã làm bài thơ họa dán lên báo tường (cụ Ca Văn Thỉnh, Giám đốc Thư viện cũng làm một bài).
Trong số hơn 1.600 bài mà Cứu Quốc nhận được, có hơn 300 bài hoặc hoàn toàn làm không đúng luật thơ Đường tám câu, hoặc thất luật, thất niêm. Trong thư gửi Tòa soạn, ông Lê Văn, cán bộ Mặt trận (xã Yên Phụ, Yên Phong, Hà Bắc) viết: “Nói đến luật thơ Đường thì niêm, luật, ý, lời thật là khe khắt nên cũng ngập ngừng sợ sai sót. Nhưng không. Với nhiệt tình thì cứ làm. Thật là điếc không sợ súng”. Ông đã gửi bài tới Tòa soạn và còn cho biết thêm: “Ở xã, sau khi chúng tôi nhận được tờ Cứu Quốc, anh em chúng tôi tọa đàm với nhau rồi xuống các tổ phụ lão… Cụ ông cũng họa, cụ bà cũng họa… Có một điều đáng chú ý ở đội trồng cây hợp tác xã Yên Sơn có 51 cụ thì cả 51 cụ đều nhớ câu cuối của bài xướng: Cây đây, rừng đấy, Bác ta trồng”. Cứu Quốc chia sẻ với những tác giả nhiệt tình và trân trọng đối với những bài họa không đúng luật, cả với những bài đề là “thơ họa” nhưng có những câu dài 11 chữ: “Vườn cây Mặt trận Dân tộc Thống nhất Bác Hồ trồng”…
Nhiều tác giả gửi thư tới Tòa soạn hoan nghênh bài thơ xướng của Bộ trưởng Phan Anh nhưng cũng nói là vần của bài xướng “hắc búa” quá. Vì có hai vần trồng nên có nhiều tác giả họa theo thể thủ vĩ ngâm. Có một số tác giả nói rõ ý mình là muốn họa khác vần trồng ở câu kết (câu thứ 8). Có tác giả, như ông Vũ Văn Quế, Việt kiều ở Luân Đôn, họa chệch mấy vần nhưng bài họa của ông là một bài thơ Đường 8 chữ đúng luật, có tứ độc đáo, lại là lời phát biểu của một người con xa Tổ quốc gửi về đón mừng Đại hội, nên Tòa soạn cũng đã cho đăng.
Dưới đây xin điểm về một số thơ họa, qua các vần.
Vần trồng ở câu phá đề (câu 1):
Vần này đúng là “hắc búa” như nhiều tác giả nói, vì chữ trồng chỉ có một nghĩa. Nhưng với nhiệt tình cao, với lòng biết ơn sâu sắc đối với Đảng, Hồ Chủ tịch, Mặt trận, các tác giả đã có nhiều ý phong phú trong cả câu. Nhiều tác giả đề cập thẳng đến vần đề Mặt trận ngay từ câu này. Bạn Nguyễn Cung Mạc (Hà Nội) viết: “Kìa cây Đoàn kết Bác ta trồng”. Ông Đào Văn Định, ở thành phố Nam Định: “Trí thức ngày nay Bác khéo trồng”. Cụ Đông Thành Nguyễn Văn Tuy, ở khu Hoàn Kiếm, Hà Nội: “Rừng cây “Phụ lão” Bác ta trồng”.
Nhiều tác giả đề cập đến công ơn vĩ đại của Hồ Chủ tịch đối với dân tộc ta. Cụ Hoàng Hưng Tuân (dân tộc Tày, tỉnh Cao Bằng) viết: “Pác Bó nêu cao dấu Bác trồng”. Kỹ sư thủy sản Liêu Hải Phong (Hoa kiều, 68 Hàng Buồm, Hà Nội): “Bác Hồ trồng trước đến dân trồng”. Bạn Mai Xuân Đào (xã Quảng Sơn, Quảng Bình): “Dạo gót năm châu chọn giống trồng”…
Có những tác giả vào đề bài thơ như dâng thành tích của ngành mình lên mừng Đại hội sắp tới. Chị Phương Thị Thanh Điệp (HTX nông nghiệp Đại Thắng, Phú Xuyên, Hà Tây) viết:
Bèo dâu ai đó khéo ươn trồng
Nhân mãi màu xanh tiếp biển Đông.
Chị Nguyễn Thị Hồng (Ban Chấp hành Phụ nữ xã Hải Hà, Hải Hậu) vừa nói lên công ơn Hồ Chủ tịch, vừa nói lên sự trưởng thành của phụ nữ nước ta:
Liễu yếu đào tơ Bác khéo trồng
Cũng thành tùng, bách trấn trời Đông.
Bạn Vũ Văn Thành, cán bộ giảng dạy (ĐHSP Hà Nội 2): “Đội ngũ thầy, cô gắng sức trồng”. Bạn Văn Luận (HTX vôi ngói, Hòn Gai): “Mã Lương lớp trẻ Bác vun trồng”. Em Đỗ Thị Thu Hà (lớp 7A trường cấp II, xã Hải Hà, Hải Hậu):
Hàng cây non ấy Bác Hồ trồng
Nay đã thành rừng trắc cõi Đông.
Một ý khá độc đáo được bạn Lã Trọng Minh (Bộ Kiến trúc) nêu lên bằng cách liên hệ bản thân:
Tôi như cây cối được vun trồng
Hớn hở phô màu đón rạng đông.
Vần “Đông”:
Chữ đông cũng ít nghĩa. Nhiều tác giả dùng chữ “Biển Đông”, như bạn Hoàng An (Chợ Con, Hải Phòng): “Sức mạnh đào non, lấp biển Đông”. Bạn Thanh Tịnh (ĐHSP Việt Bắc): “Sức mạnh dời non, lấp biển Đông”… Phần lớn vần “đông” trong các bài họa đều có nghĩa là phương Đông. Cụ Nguyễn Thị Ất (Hà Nội):
Khí thiêng Tổ quốc đã vun trồng
Hồ Chí Minh ngời sáng cõi Đông.
Nhà văn Nguyễn Hải Trừng viết: “Một bức trường thành trấn cõi Đông”. Ông Vương Tô Văn, Chủ tịch MT huyện Ba Chẽ, Quảng Ninh: “Việt Nam xanh mát cõi trời Đông”.
Nhiều vần “đông” khác có nghĩa là đông đúc. Cụ Lê Hào (Hà Nội): “Mặt trận sum vầy đủ loại đông”. Chị Phạm Thị Đức Phương (ĐHSP Hà Nội) viết: “Cho bao thế hệ cháu con đông”. Bạn Đức Chính (Hải Phòng): “Chí vững gan bền sức lại đông”…
Vần “đông” còn được dùng theo nghĩa “mùa đông”. Cụ Hoàng Bá Chuân (64, Hàng Bạc, Hà Nội) viết: “Dầu dãi sương hè với tuyết đông”. Bạn Nguyễn Báu (Cục Hậu cần, Công an Nhân dân võ trang):
Bác chắc từ khi bới đất trồng
Cây xuân này sẽ chắn mùa đông.
Một số khá nhiều tác giả như bạn Nguyễn Trọng Tuất (ĐHSP Vinh) dùng vần “đông” để nói lên một chiến thắng lớn của quân và dân hai nước anh em Việt - Lào: “Đường 9, Khe Sanh tới Bản Đông”…
Vần “nông”:
Có một bạn họa thơ nói vui với chúng tôi: “Hai câu thực (câu 3 và 4) của bài họa kỳ này thực là gay vì vần nông”. Vần nông được tuyệt đại đa số dùng theo hai nghĩa thông thường của nó là nông nghiệp (công nông) và nông sâu. Nắm vững điều luật họa thơ Đường 8 chữ là chỉ được họa lấy một chữ vần của mỗi vần, không được lấy cả chữ đứng liền trước vần đó, cụ Chi Phương Nguyễn Hữu Hàm (Lâm Thao, Vĩnh Phú) đã họa một bài theo đúng điều luật đó. Nhưng, cụ viết trong thư gửi Tòa soạn: “…Tôi lại họa thêm một bài nữa. Bài này tôi “chịu vần” của tác giả. Bài đó có hai câu thực như sau:
Dẫu quả là phần chung đất nước
Mà mầm bắt rễ tự công nông.
Thực tế, rất nhiều bài thơ đã “chịu vần” của bài xướng như vậy. Nhưng vì mấy vần của bài họa “hắc búa” như nhiều bạn nói, Cứu Quốc đã phải chú ý nhiều đến nội dung chính trị, đến tứ thơ hay, đến chữ dùng đắt… của toàn bài và do đó đã đăng lên báo cả những bài có “chịu vần” như vậy.
Một số tác giả, như bạn Mai Thanh Thụ (Cục Truyền thanh) dùng một từ khác: “Tầm vông dám chống cự ca nông”. Bạn Lê Huy Điệp (khu tập thể Nguyễn Công Trứ, Hà Nội): “Cây cỏ từng xua tụi ủy, nông” (ủy, nông tiếng Pháp: vâng, không). Trong tất cả ngót 1.700 bài họa, có một bài của bạn Mai Lâm, Hà Nội, đã họa vần đó một cách duy nhất thật độc đáo:
“Hợp sức công, nông, binh, trí thức
Họp đàn Kinh, Thượng, Khạ, Mơ Nông”.
Vần “hồng”:
Các tác giả thường họa vần này theo những nghĩa đen, nghĩa bóng thông thường của chữ hồng hoặc theo nghĩa Lạc Hồng, sông Hồng… Cụ Trần Trọng Thưởng (Mỹ Đức, Hà Tây) viết:
Trời đất nể gan dòng giống Lạc
Giang sơn tỏ mặt cháu con Hồng.
Bạn Quý Yến (Tổng cục Lâm nghiệp), nhà thơ Đoàn Văn Cừ đã dùng vần “hồng” mà vẽ nên những bức tranh đẹp:
Phi lao lá hạ thêu rèm biếc
Dương liễu cành xuân dệt năng hồng.
(Quý Yến)
Đường quê bãi dệt vùng pha biếc
Xưởng máy lầu tô tía lẫn hồng.
(Đoàn Văn Cừ)
Chị Song Yên (giáo viên ở Hòn Gai) dùng hai chữ chị Hồng (tức nữ Anh hùng Lê Thị Hồng Gấm) để họa vần này. Một số tác giả như Thượng tọa Thích Linh Quang (chùa Phúc Hà, Ninh Bình), cụ lang Đông y Phạm Văn Thơ (Chợ Đồn, Ý Yên), bạn Lê Cảnh (Hương Sơn, Hà Tĩnh) đã dùng chữ hồng với ý nghĩa là loài chim hồng: “Cờ đỏ vàng sao thẳng cánh hồng” (cụ Phạm Văn Thơ). Cụ Ca Văn Thỉnh cũng dùng chữ hồng như vậy để nói lên lực lượng của nhân dân ta:
Sức dời non biển kinh hồn địch
Chí bạt trời mây vút cánh hồng.
Một số tác giả khác đã dùng chữ Diên Hồng, chữ này đã có nhiều bạn đọc nhận xét là dùng rất đắt. Chị Hà Đào Chi (ĐHSP Hà Nội 2) viết:
Nối chí cha ông thời Kiếp Bạc
Góp mưu trăm họ thuở Diên Hồng.
Bạn Trần Ngọc Lâm (285, Hoàng Văn Thụ, Nam Định):
Sát thát diệt Nguyên, hồn Kiếp Bạc
Khí thiêng chống Mỹ, lửa Diên Hồng.
Bạn Nguyễn Chi (Khoa Toán, ĐHSP Hà Nội 2) viết trong một bài họa theo kiểu “sang sợi” - lấy 8 chữ “Chúc Đại hội Mặt trận đại thành công” làm 8 chữ đầu 8 câu của bài thơ họa:
Trận tuyến đó, mài gươm Kiếp Bạc
Đại doanh đây, bàn kế Diên Hồng.
Vần “trồng” ở cuối bài:
Vần này cũng như vần “trồng” ở câu thứ nhất của bài thơ xướng, chỉ có một nghĩa. Nhưng nhiều tác giả cũng đã làm cho câu kết của bài họa có những ý độc đáo, đặc biệt là nêu bật được lòng biết ơn của mình đối với Hồ Chủ tịch, Đảng và Mặt trận. Cụ Nguyễn Văn Kỳ (Lâm Thao, Vĩnh Phú) viết:
Cao ngút non sông, ngăn sóng gió
Đi đâu cũng thấy bóng cây trồng.
Bạn Nguyễn Xuân Tạo (Hòm thư 740.492.JB03): “Bác nghĩ, chúng ta tiếp tục trồng”. Bạn Nguyễn Như Tiêu (huyện Xin-ma-cai, Lai Châu):
Gió lộng Trường Sơn hòa bốn biển
Bác còn sống mãi với cây trồng…
Ngoài những bài thơ họa theo kiểu thông thường, có một số tác giả họa theo kiểu “sang sợi” (như bạn Nguyễn Chi, đã kể ở trên). Cụ Áng Hải (49, Hàm Long, Hà Nội) lấy 8 chữ “Chào mừng Đại hội Mặt trận Tổ quốc” làm đề tài. Bạn Như Môn (Nhà máy cơ khí 1 - 5 Hưng Yên) lấy 8 chữ “Cây cao bóng cả, Bác Hồ vun trồng”. Các bạn Trường Thiên (Ty Thông tin Sơn La), Lê Như Sâm (khu tập thể Nguyễn Công Trứ, Hà Nội), bạn Nguyễn Thế Canh (Ủy ban Nông nghiệp Trung ương) không hẹn mà gặp, cùng chọn 8 chữ: “Đời đời nhớ ơn Bác Hồ vĩ đại”. Trong số những tác giả họa nhiều bài “sang sợi”, còn có cụ Lê Công Hợp (43, phố Cầu Gỗ, Hà Nội), ông Nam Hùng (12, Hàng Dầu, Hà Nội), chị Lê Thị Tuất (công nhân Nhà máy điện khí Thống Nhất) v.v…, còn có một số tác giả họa theo kiểu “thuận nghịch độc” (một bài đọc xuôi, một bài đọc ngược bài trên), họa bằng chữ Hán, họa theo thể thơ ngũ ngôn, họa theo thể song thất lục bát, v.v.
Trong khuôn khổ một bài báo, chúng tôi không thể điểm hết trăm sắc trăm hương của cả Vườn thơ Đoàn kết đón chào Đại hội lần thứ III Mặt trận Tổ quốc Việt Nam mà đông đảo các cụ, các bạn đã chung sức chung lòng cùng trồng nên. Những câu thơ trích dẫn trong bài này cũng chưa phải là tất cả những câu điển hình nhất. Còn nhiều câu thơ hay, bài thơ hay cả về tứ, về chữ dùng, cả về kết cấu của bài, nói lên được sức mạnh của khối Đại đoàn kết của toàn dân tộc, lòng biết ơn của toàn dân ta đối với Hồ Chủ tịch, người sáng lập ra Mặt trận Dân tộc Thống nhất, mở đường thắng lợi cho cả nước, lòng biết ơn đối với Đảng lãnh đạo, ý chí quyết chiến quyết thắng kẻ thù xâm lược và xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội của toàn dân ta… Những bài thơ đó dù không có dịp đăng lên báo nhưng chúng tôi nghĩ đó cũng là những đóa hoa tươi đẹp đã góp vào Vườn thơ Đoàn kết để đón chào Đại hội.
Nhân dịp này Bộ trưởng Phan Anh đã gửi tới Cứu Quốc một lá thư với nội dung sau: “Cuộc xướng họa thơ do quý báo tổ chức đã kết thúc thắng lợi trong niềm tin tưởng sắt đá vào sức mạnh đại đoàn kết vô cùng to lớn của Mặt trận Dân tộc Thống nhất dưới sự lãnh đạo của Đảng Lao động Việt Nam, bảo đảm sự thực hiện Di chúc thiêng liêng của Hồ Chủ tịch kính mến, giải phóng miền Nam, xây dựng miền Bắc xã hội chủ nghĩa, tiến tới một nước Việt Nam độc lập, thống nhất, dân chủ và giàu mạnh, góp phần đắc lực vào cách mạng thế giới. Để tỏ lòng hâm mộ đối với các cụ, các bạn đã tham gia cuộc họa thơ và cảm ơn báo Cứu Quốc đã tổ chức cuộc xướng họa, tôi xin có mấy vần lấy đầu đề là: Ba cây chụm lại”.
BA CÂY CHỤM LẠI
Một cây làm chẳng nên non
Ba cây chụm lại nên hòn núi cao.
Núi cao nguồn nước dạt dào,
Rừng thơ hoa nở trăm màu, trăm hương.
Thật là giá đáng thịnh Đường
Lời lời châu ngọc, hàng hàng gấm thêu!
Giá gương lồng phủ nhiễu điều,
Diễn đàn Cứu Quốc bao nhiêu hẹn hò!
Bắc - Nam một dải cơ đồ,
Cùng nhau nối gót Bác Hồ trồng vun.
Sao cho chung một trời xuân,
Núi sông vang dậy muôn vần thơ ca!
Rồi ra ta lại gặp ta,
Ấy là hứa hẹn, ấy là ước mong.
Muôn đội ơn lòng.
Cứu Quốc chân thành cảm ơn Bộ trưởng Phan Anh đã góp phần tốt đẹp vào cuộc họa thơ này. Đối với tất cả các tác giả đã có thơ họa gửi đến Vườn thơ Đoàn kết, Cứu Quốc xin phép dùng câu kết của Bộ trưởng Phan Anh trong bài thơ BA CÂY CHỤM LẠI đăng trên số báo ngày 16/12/1971, để nói lên ý nghĩa sâu sắc của chúng tôi: Muôn đội ơn lòng!
D.P.T
(Nguồn: Báo Cứu Quốc các số: 3529/1971, 3572/1972)
(SDB13/06-14)
HOÀNG VŨ THUẬTChúng ta đã có nhiều công trình, trang viết đánh giá nhận định thơ miền Trung ngót thế kỷ qua, một vùng thơ gắn với sinh mệnh một vùng đất mà dấu ấn lịch sử luôn bùng nổ những sự kiện bất ngờ. Một vùng đất đẫm máu và nước mắt, hằn lên vầng trán con người nếp nhăn của nỗi lo toan chạy dọc thế kỷ. Thơ nảy sinh từ đó.
BÙI QUANG TUYẾNThơ mới là một hiện tượng nổi bật của văn học Việt Nam nói chung và thơ ca nói riêng trong thế kỷ XX. Nó vừa ra đời đã nhanh chóng khẳng định vị trí xứng dáng trong nền văn học dân tộc với các "hoàng tử thơ": Thế Lữ , Xuân Diệu, Huy Cận, Lưu Trọng Lư, Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử v.v... Đồng thời, Thơ mới là một hiện tượng thơ ca gây rất nhiều ý kiến khác nhau trong giới phê bình, nghiên cứu và độc giả theo từng thời kỳ lịch sử xã hội, cho đến bây giờ việc đánh giá vẫn còn đặt ra sôi nổi. Với phạm vi bài viết này, chúng tôi điểm lại những khái niệm về Thơ mới và sự đổi mới nghệ thuật thơ của các bậc thầy đi trước và tìm câu trả lời cho là hợp lý trong bao nhiêu ý kiến trái ngược nhau.
MẠNH LÊ Thơ ca hiện đại Việt Nam thế kỷ XX đã thu được những thành tựu to lớn đóng góp vào sự phát triển của lịch sử thơ ca dân tộc. Đặc biệt từ ngay sau Cách mạng tháng 8 năm 1945, Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời thay thế chế độ phong kiến thực dân hơn trăm năm đô hộ nước ta cùng với khí thế cách mạng kháng chiến cứu nước theo lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh tháng 12 năm 1946 đã thổi vào đời sống văn học một luồng sinh khí mới để từ đó thơ ca hiện đại Việt Nam mang một âm hưởng mới, một màu sắc mới.
NGUYỄN KHẮC THẠCHNếu gọi Huế Thơ với tư cách đối tượng thẩm mĩ thì chủ thể thẩm mĩ của nó trước hết và sau cùng vẫn là sự hoá sinh Thơ Huế. Đương nhiên, không hẳn chỉ có Thơ Huế mới là chủ thể thẩm mĩ của Huế Thơ và cũng đương nhiên không hẳn chỉ có Huế Thơ mới là đối tượng thẩm mĩ của Thơ Huế. Huế Thơ và Thơ Huế vẫn là hai phạm trù độc lập trong chừng mực nào đó và có khi cả hai đều trở thành đối tượng thẩm mĩ của một đối tượng khác.
ĐỖ LAI THÚYThanh sơn tự tiếu đầu tương hạc Nguyễn KhuyếnNói đến Dương Khuê là nói đến hát nói. Và nói đến hát nói, thì Hồng Hồng, Tuyết Tuyết làm tôi thích hơn cả. Đấy không chỉ là một mẫu mực của thể loại, mà còn làm một không gian thẩm mỹ nhiều chiều đủ cho những phiêu lưu của cái đọc.
NGUYỄN NGỌC THIỆNHải Triều tên thật là Nguyễn Khoa Văn, sinh năm 1908 trong một gia đình Nho học, khoa bảng. Năm 20 tuổi, trở thành đảng viên trẻ của Tân Việt cách mạng Đảng, Nguyễn Khoa Văn bắt đầu cầm bút viết báo với bút danh Nam Xích Tử (Chàng trai đỏ). Điều này đã khiến trong lần gặp gỡ đầu tiên, người trai có "thân hình bé nhỏ và cử chỉ nhanh nhẹn theo kiểu chim chích" (1) ấy đã gây được cảm tình nồng hậu của Trần Huy Liệu- chủ nhiệm Nam Cường thư xã, người bạn cùng trang lứa tuy vừa mới quen biết, nhưng đã chung chí hướng tìm đường giải phóng cho dân tộc, tự do cho đất nước.
TÔ VĨNH HÀ Huế đang trở lạnh với "mưa vẫn mưa bay" giăng mờ như hư ảo những gương mặt người xuôi ngược trên con đường tôi đi. Tôi giật mình vì một tà áo trắng vừa trôi qua. Dáng đi êm nhẹ với cánh dù mỏng manh như hơi nghiêng xuống cùng nỗi cô đơn. Những nhọc nhằn của tuổi mơ chưa đến nỗi làm bờ vai trĩu mệt nhưng cũng đủ tạo nên một "giọt chiều trên lá(1), cam chịu và chờ đợi nỗi niềm nào đó hiu hắt như những hạt mưa...
NGUYỄN HỒNG DŨNG1. Một cuộc đời lặng lẽ và những truyện ngắn nổi danhO' Henry, tên thật là William Sydney Porter, được đánh giá là người viết truyện ngắn xuất sắc nhất của nước Mỹ những năm đầu thế kỷ XX. Ông sinh tại Greenboro, tiểu bang North Carolina vào năm 1862. Năm 15 tuổi (1877), ông thôi học và vào làm việc trong một hiệu thuốc tây. Vào tuổi hai mươi, ông bị đau nặng và sức khoẻ sa sút nên đã đến dưỡng sức ở một nông trại tại tiểu bang Texas. Ông đã sống ở đấy hai năm, đã làm quen với nhiều người và hiểu rất rõ tính cách miền Tây. Sau này, ông đã kể về họ rất sinh động trong tập truyện ngắn có tựa đề đầy xúc cảm Trái tim miền Tây.
MAI KHẮC ỨNGCó thể sau khi dẹp được loạn 12 sứ quân, Đinh Tiên Hoàng (968- 979) thống nhất lãnh thổ và lên ngôi hoàng đế, đã đặt được cơ sở ban đầu và xác định chủ quyền Đại Cồ Việt lên tận miền biên cương Tây Bắc vốn là địa bàn chịu ảnh hưởng Kiểu Công Hãn. Trên cơ sở 10 đạo thời Đinh nhà vua Lý Thái Tổ (1010- 1028) mới đổi thành 24 phủ, lộ. Nguyễn Trãi viết Dư địa chí (thế kỷ XV) vẫn giữ nguyên tên gọi đạo Lâm Tây. Tức vùng Tây- Bắc ngày nay.
TRẦN ANH VINHÂm vang của những sự kiện xẩy ra năm Ất Dậu (1885) không những vẫn còn đọng trong tâm trí người dân núi Ngự mà còn được ghi lại trong một số tác phẩm. Bài vè “Thất thủ Kinh đô” do cụ Mới đi kể rong hàng mấy chục năm ròng là một tác phẩm văn học dân gian, được nhiều người biết và ngưỡng mộ. Riêng Phan Bội Châu có viết hai bài:+ Kỷ niệm ngày 23 tháng Năm ở Huế (Thơ)+ Văn tế cô hồn ngày 23 tháng Năm ở Kinh thành Huế.
HOÀNG CÔNG KHANHCó một thực tế: số các nhà văn cổ kim đông tây viết tiểu thuyết lịch sử không nhiều. Ở Việt Nam càng ít. Theo ý riêng tôi nguyên nhân thì nhiều, nhưng cơ bản là nhà văn viết loại này phải đồng thời là nhà sử học, chí ít là có kiến thức sâu rộng về lịch sử. Cũng nhiều trường hợp người viết có đủ vốn liếng cả hai mặt ấy, nhưng hoặc ngại mất nhiều công sức để đọc hàng chục bộ chính sử, phải sưu tầm, dã ngoại, nghiên cứu, đối chiếu, chọn lọc hoặc đơn giản là chưa, thậm chí không quan tâm đến lịch sử.
TRƯƠNG ĐĂNG DUNG Tặng Đỗ Lai ThuýChủ nghĩa hiện đại là kết quả của những nỗ lực hiện đại hoá đời sống và tư duy xẩy ra từ những năm cuối của thế kỷ XIX, ở Châu Âu. Những thành tựu nổi bật của khoa học tự nhiên, của triết học, xã hội học và tâm lí học đã tác động đến cách nghĩ của con người hiện đại trước các vấn đề về tồn tại, đạo đức, tâm lí. Tư tưởng của Nietzsche, Husserl, hay Freud không chỉ ảnh hưởng đến tư duy hiện đại mà tiếp tục được nhắc đến nhiều ở thời hậu hiện đại.
ĐẶNG TIẾNTân Hình Thức là một trường phái thi ca hiện đại được phổ biến từ năm bảy năm nay, phát khởi do Tạp Chí Thơ, ấn hành tại Mỹ, chủ yếu từ số 18, xuân 2000 “chuyển đổi thế kỷ”, và được nhiều nhà văn, nhà thơ trong và ngoài nước hưởng ứng. Tên Tân Hình Thức dịch từ tiếng Anh New Formalism, một trường phái thơ Mỹ, thịnh hành những năm1980 - 1990.
NGUYỄN ĐĂNG ĐIỆP Một ngày kia, cát bụi vùng Hoan Diễn đã sinh tạo một “kẻ ham chơi”. Y cứ lãng đãng trong đời như một khách giang hồ mang trái tim nhạy cảm, một trái tim đầy nhạc với những đốm lửa buồn. Để rồi sau những cuộc say tràn cung mây, khi dòng cảm hứng chợt bùng lên từ những vùng u ẩn nằm sâu trong cõi nhớ, những giai âm ùa về như những luồng điện làm vỡ òa bí mật: có thương có nhớ có khóc có cười- có cái chớp mắt đã ngàn năm trôi. Đây là những câu thơ khép lại một trong những bài thơ hay nhất của Nguyễn Trọng Tạo: Đồng dao cho người lớn(1).
NGUYỄN KHẮC PHÊTừ lâu, ở Huế, nhiều người đã biết tiếng ba công chúa, ba nữ sĩ (Tam Khanh) con vua Minh Mạng, em gái nhà thơ nổi tiếng Tùng Thiện Vương Miên Thẩm, trong đó MAI AM là người được nhắc đến nhiều nhất. Mai Am nổi tiếng trước hết vì tài thơ và cùng vì cuộc đời riêng không được may mắn của bà, tuy bà là người sống thọ nhất trong “Tam Khanh”.
LÊ DỤC TÚCùng với nghệ thuật tiếp cận và phản ánh hiện thực, nghệ thuật miêu tả và khắc họa chân dung nhân vật, nghệ thuật châm biếm và sử dụng ngôn ngữ cũng là một trong những nét nghệ thuật đặc sắc ta thường gặp trong các phóng sự Việt Nam 1932 - 1945.
NGUYỄN VĂN DÂNTrong thế kỷ XX vừa qua, thế giới, đặc biệt là thế giới phương Tây, đã sản sinh ra biết bao phương pháp phục vụ cho nghiên cứu văn học, trong đó phương pháp cấu trúc là một trong những phương pháp được quan tâm nhiều nhất.
AN KHÁNHHai mươi tám năm kể từ ngày chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam, đủ để một thế hệ trưởng thành, một dòng thơ định vị. Tháng 3 vừa qua, Hội Văn nghệ Hà Nội và nhóm nhà thơ - nhà văn - cựu binh Mỹ có cuộc giao lưu thú vị, nhằm tìm ra tiếng nói "tương đồng", sự thân ái giữa các thế hệ Mỹ - Việt thông qua những thông điệp của văn chương.
TRẦN ĐÌNH SỬ Bạn đọc Việt Nam vốn không xa lạ với phê bình phân tâm học hơn nửa thế kỷ nay, bởi nó đã bắt đầu được giới thiệu vào nước ta từ những năm ba mươi, bốn mươi thế kỷ trước. Nhưng đáng tiếc nó đã bị kỳ thị rất nặng nề từ nhiều phía. Giống như nhân loại có thời phản ứng với Darwin vì không chấp nhận lý thuyết xem con người là một loài cao quý lại có thể tiến hóa từ một loài tầm thường như loài khỉ, người ta cũng không thể chấp nhận lý thuyết phân tâm học xem con người - một sinh vật có lý trí cao quý lại có thể bị sai khiến bởi bản năng tầm thường như các loài vật hạ đẳng!
PHẠM ĐÌNH ÂN(Nhân kỷ niệm lần thứ 20 ngày mất của Thế Lữ 3-6-1989 – 3-6-2009)Nói đến Thế Lữ, trước tiên là nói đến một nhà thơ tài danh, người góp phần lớn mở đầu phong trào Thơ Mới (1932-1945), cũng là nhà thơ tiêu biểu nhất của Thơ Mới buổi đầu. Ông còn là cây bút văn xuôi nghệ thuật tài hoa, là nhà báo, dịch giả và nổi bật là nhà hoạt động sân khấu xuất sắc, cụ thể là đưa nghệ thuật biểu diễn kịch nói nước nhà trở thành chuyên nghiệp theo hướng hiện đại hóa.