Việc làng - phụ nữ còn là người đẻ các bác

15:51 05/01/2009
HỒ TƯNằm trên dải cát ven phá Tam Giang, từ xưa làng tôi cũng đã có một ngôi đình. Đến năm 1946, thực hiện chủ trương tiêu thổ kháng chiến, Chính quyền cách mạng đã vận động nhân dân triệt phá ngôi đình để tránh cho Tây khỏi làm nơi trú đóng.

Thời thơ ấu, tôi thường ra đây chơi với bọn bạn bè, trên nền cũ vẫn còn trơ lại mấy bức vách đá rất dày, một cái am nhỏ bằng gỗ quy tụ rất nhiều lư hương, thờ tạm thần linh sau khi đình bị phá, phía trước là bốn cột trụ biểu rất to vẫn còn nguyên vẹn, cả quần thể được bao bọc bởi cái rú giữa làng, trở mặt xuống Tam Giang, trong địa cuộc cũng có thể coi là “tiền thâm hậu bối”.
Rồi cuộc chống Mỹ lại bồng lên, quê tôi là căn cứ địa của cách mạng ở đồng bằng, bởi vậy, nó trở thành mục tiêu mà người Mỹ muốn đánh phá bất cứ lúc nào tuỳ thích. Những cuộc hành quân truy lùng, vây ráp, triệt phá liên tục xảy ra, và những gì còn sót lại trong quá khứ thì đến năm 1968 bom đạn của Mỹ cũng đã san bằng tất cả, bốn cột trụ biểu đổ nhào nát vụn, cái am bằng gỗ cũng tan tành, đây là vùng bị tàn phá vô cùng ác liệt. Chưa đủ, năm 1969 Mỹ còn mang cả cơ giới đại xa húc, ủi, xới, cày, làm cho nhà cửa ruộng vườn, cây cối, khe suối, rú ruồng không những làng tôi mà cả một vùng mấy xã liền kề trở thành bình địa, để rồi chúng dồn dân lập ấp, cả mấy trăm gia đình bị quy lại trong ấp chiến lược chỉ mấy vùng nương.
Tuy là vùng chiến tranh, nhưng xuân thu nhị kỳ, những ngày lễ tiết, các cụ phụ lão cũng vận động dân làng dựng rạp tiến hành tế lễ trên nền đình cũ, với đầy đủ nghi thức, lễ nhạc đàng hoàng, bằng cả tấm lòng thành kính tôn nghiêm, tưởng niệm công đức người xưa có công khai phá, mở cõi, lập làng cho ngày nay dân cư đông đúc; có năm giết cả trâu bò, cả làng cấm lửa mà vui nhất là bọn con nít chúng tôi.

Năm 1971, toàn dân đồng thuận bán chiếc máy cày của chương trình viện trợ cho ấp chiến lược, cộng với sự đóng góp công sức tài vật của toàn dân, làng đã xây dựng lại đình làng mới.
Sau ngày giải phóng, nhận thấy rằng theo thời gian ngôi đình làng bị nắng mưa phong hoá, quy mô và phong sắc chưa tương xứng với sự hưng vượng của làng nên hội nghị chư tộc đã quyết định đại trùng tu, với sự đóng góp công sức tài vật của con dân gần xa khắp nơi trong nước và nước ngoài, mùa hạ năm Canh Thìn (2000) khởi công xây dựng, đại tu hậu tẩm, xây mới tiền đàn, chỉnh trang phong cảnh, đến mùa thu năm Tân Tỵ (2001) hoàn thành.
Lệ thường xưa nay, khi xây dựng xong xuôi thì tổ chức lễ lạc thành an vị, đây cũng là dịp con dân gần xa tụ hội và cũng để tạ ơn những người có công lao đóng góp xây dựng đình làng.
Chương trình được tiến hành thành hai công đoạn, phần cổ lễ được tiến hành chiều hôm trước, sáng ngày hôm sau là phần tân lễ, sau khi tổ chức cắt băng khánh thành thì mời quan khách, bà con dự tiệc rượu mừng; bàn định xong xuôi, phân công nhiệm vụ cho các tiểu ban thi hành nhiệm vụ. Khi cổ lễ đã tiến hành xong, ông Tú một người dân tuy tha hương nhưng thường xuyên quan tâm, có nhiều đóng góp công sức cho việc xây dựng hương thôn hỏi ông Quyết trưởng ban đốc sự xây dựng đình làng và đại lễ khánh thành về việc chọn các cô gái xinh đẹp để cầm băng cho lễ cắt băng, ông Quyết trả lời:

- Việc ni tui đưa ra bàn trong các bác phụ lão rồi nhưng có người không chịu;
- Tại sao, thưa bác?
- Họ nói phụ nữ uế tạp không được vô đình.
Nghe đến đây ông Tú toát mồ hôi, nhưng ông  tự kìm mình và hỏi lại:
- Ai nói rứa bác?
- Bác Ất nói - vừa nói ông vừa hất hàm về phía ông Ất.
Ông Tú lắc đầu ngao ngán, biết quá rõ về ông Ất, tuy chỉ là ý kiến của một người thôi mà cả làng cũng phải chào thua bởi ông Ất là hàng chú bác của một họ khá đông và con cháu của một dòng có công khai khẩn, biết mình là ai nên ông Tú bình tĩnh nói to với ông Quyết nhưng mục đích là cho cả rạp cùng nghe:
- Đề nghị bác cho mời các bác đang có mặt ở đây, mời các anh trong ban cán sự thôn và mời luôn anh Bí thư, anh Chủ tịch xã cũng là con dân của làng đang có mặt ở đây vô bàn thêm một chút.

Lời đề nghị của ông Tú được ông Quyết đồng tình, và khi đầy đủ các thành phần ông Tú chủ động lên tiếng, nén xúc động ông lễ phép thưa:
- Thưa các bác, các anh, chương trình tế lễ đã được ban tổ chức bàn định kỹ rồi, sở dĩ có phần tân lễ là vì có mời quan khách của huyện, của xã, con dân xa gần tụ hội, lẽ ra phải mời họ dự lễ chánh tế lạc thành an vị, nhưng lễ đó quá dài, quan khách phải đợi chờ thì quá ư bất tiện, do đó cổ lễ phải tiến hành hôm trước, còn hôm sau tổ chức lễ cắt băng khánh thành, quan khách vô dâng hương, mời tiệc rượu, như vậy nhanh gọn mà cũng không kém phần long trọng, thông thường người ta giao cho các cô thiếu nữ xinh đẹp, mặc áo dài lịch sự cầm băng, nhưng nghe nói có ý kiến phản đối vì cho rằng phụ nữ uế tạp không được vô đình, (đến đây hơi thở của ông đã mạnh lên dần):

- Thưa các bác, phụ nữ thời nay bình đẳng với nam, nhiều phụ nữ là quan chức cấp cao trong cơ quan nhà nước, phụ nữ có người đang ngự trị ngôi Vua, gặp Vua từ xa đã phải cung kính cúi chào, phụ nữ có người đang làm Tổng thống, làm Thủ tướng, quyết định được cả việc chiến tranh, hoà bình, bắn phá nhiều ngôi đình nếu cần họ cũng còn ra lệnh được. Ở làng ta, phụ nữ đã đóng góp hơn một nửa số tiền xây dựng ngôi đình, phụ nữ có phải ai khác đâu mà là mẹ, là chị em, là o là dì bà con cô bác của chúng ta, (và đến đây giọng ông đã run lên, từng tiếng như gằn trong cổ họng):
- Thưa các bác, phụ nữ còn là người đẻ các bác để các bác ra làng sao dám cho rằng phụ nữ lại là uế tạp.

Lời ông vừa dứt, không khí nặng nề bao trùm cả rạp, quanh sân đình không gian  hình như lắng lại, mọi người ngước mắt nhìn nhau, chưa ai biết phải bắt đầu trở lại câu chuyện như thế nào, xung quanh đó nhiều phụ nữ dự nghe đã râm ri, xì xào, tôi liếc mắt nhìn bà o họ của tôi nguyên một cán bộ lãnh đạo huyện về hưu, trong khoé mắt bà ánh lên cái nhìn mãn nguyện.
Một chút yên lặng cũng qua đi bởi ý kiến của anh Bí thư, rồi Chủ tịch xã phân tích thêm sự đúng đắn của ông Tú, một vài ý kiến nữa xen vào, nói chung là ủng hộ việc để các cô thiếu nữ cầm băng trong lễ cắt băng khánh thành, cuối cùng ông Quyết lên tiếng:
- Qua các ý kiến vừa rồi, các bác có mặt ở đây ai có ý kiến chi khác không thì cho biết luôn, để sau không hết tiếng.
Chính ông Ất là người lên tiếng trả lời:
- Thưa làng, chừ làng quyết răng thì tui xin nghe rứa.
Cả rạp bỗng dưng vui nhộn hẳn lên, ông Quyết chớp lấy thời cơ và phân công luôn cho những người cộng sự.

Quả thật ông Tú có hơi quá lời, nhưng nghĩ cho cùng ông nói đúng nên chẳng ai phản bác mà còn đồng thanh ủng hộ ý kiến của ông,
Ngẫm chuyện đời, những tàn dư cổ hủ, trọng nam khinh nữ đâu phải đã được gột rửa ở “việc làng”, nhưng những tư tưởng tiến bộ, văn minh cũng không phải không có đất dụng võ, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá truyền thống của dân tộc đã đành, nhưng lồng ghép những tiến bộ văn minh vào sinh hoạt văn hoá cộng đồng là điều mà các hương ước của làng đang hướng tới.
      H.T

(nguồn: TCSH số 212 - 10 - 2006)

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • NGUYỄN VĂN VINH                                 Bút kýAi về cầu ngói Thanh ToànCho em về với một đoàn cho vui

  • NGUYỄN NHÃ TIÊN                         Bút ký"Hồng Lam ngũ bách niên thiên hạ. Hưng tộ diên trường ức vạn xuân". Nghĩa là: đất nước Hồng Lam sau ta năm trăm năm sẽ là một thời kỳ hưng thịnh vạn mùa xuân.Không hiểu những tương truyền về "sấm ký" Trạng Trình "ứng nghiệm" đến dường nào, đâu là nguyên bản và thực hư ra sao? Có điều, chúng tôi đang viếng thăm làng quê Trung Am xã Lý Học huyện Vĩnh Bảo - quê hương của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm đúng vào cái khoảng thời gian "sau năm trăm năm" ấy, và nhất là vào giữa cái kỳ gian mà đất nước đang từng ngày" Hưng tộ diên trường ức vạn xuân".

  • TRẦN HOÀNGTrong tiếng Việt, từ "Văn vật" là một từ thuộc nhóm từ gốc Hán và cùng tồn tại song song với các từ: Văn hoá, Văn hiến, Văn minh. Người xưa thường dùng từ này để nói, viết về truyền thống văn hoá của một vùng đất, hoặc của một địa phương. Chẳng hạn, lâu nay, cư dân đồng bằng Bắc bộ đã có câu: "Thăng Long là đất ngàn năm văn vật". Song có lẽ từ "Văn vật" xuất hiện nhiều nhất trong các cụm từ "làng văn vật", "danh hương văn vật". Điều này cho thấy từ xa xưa, tổ tiên ta đã rất quan tâm đến "văn hoá làng" và "làng văn hoá".

  • TÔ VĨNH HÀTrong lịch sử loài người, có những bức tranh, những pho tượng lấp lánh toả ánh hào quang lặng im của chúng trong sự lâu bền của năm tháng. Có những ký ức có thể thi gan cùng vĩnh cửu. Nhưng có lẽ, ngôn từ có sức mạnh riêng mà không một thách thức nào, dù là của không gian hay thời gian có thể làm nhạt nhoà những âm vang của nó. Tất nhiên, một khi nó đã đi vào trái tim và khối óc của con người. 1034 chữ của bản Tuyên Ngôn Độc Lập của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà là một trong những áng ngôn từ có sức sống bền vững với thời gian như thế.

  • TRẦN QUỐC TOẢN Tôi sinh ra và lớn lên giữa làng Hến bé nhỏ bên bờ sông La xã Đức Tân (tức Trường Sơn ngày nay) huyện Đức Thọ - tỉnh Hà Tĩnh. Qua sự nhọc nhằn của cha, vất vả của mẹ đã đút mớm cho tôi từng thìa nước hến, bát cháo hến để rồi tôi lớn dần lên.

  • HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNG Đất nước ta, miền Bắc và miền nối liền nhau bằng một dải đất dài và hẹp gọi là miền Trung. Dãy Trường Sơn chạy dọc biên giới phía Tây như một cột sống vươn những chi nhánh dài ra tận biển Đông, làm thành những đèo, trong đó hiểm trở là đèo Hải Vân.

  • PHẠM TIẾN DUẬT1.Trong lịch sử hàng nghìn năm dựng nước, khi nghiên cứu về dân tộc học, có luận điểm cho rằng, trong quá trình định cư dần dà từ Bắc vào Nam, các cộng đồng, một cách tự nhiên, hình thành từng vùng thổ âm khác nhau.

  • PHAN THUẬN AN.Nhiều người từng đến Lăng Cô hoặc nghe nói đến địa danh Lăng Cô, nhưng ít ai biết rằng vua Khải Định là người phát hiện ra khu du lịch nghỉ mát này.Có thể nói vua Khải Định là ông vua thích du lịch nhất trong số 13 vị vua triều Nguyễn (1802- 1945). Trong đời mình, nhà vua đã đi du lịch nhiều nơi tring nước và cả nước ngoài nữa.

  • Thiền tông, nhờ lịch sử lâu dài, với những Thiền ngữ tinh diệu kỳ đặc cùng truyền thuyết sinh động, lại chịu ảnh hưởng sâu sắc văn hóa Á đông xưa và thấm nhuần văn hóa Tây phương ngày nay nên đã cấu thành một thế giới Thiền thâm thúy, to rộng.

  • Anh tôi đang giàu lên với nghề nuôi rắn độc, bị con hổ mang hỏi thăm vào tay. Mấy tiếng đồng hồ cáng tắt qua các cánh rừng đến bệnh viện huyện được cứu sống, nhưng vết thương bị hoại tử, hơn tháng sau mới xuất viện, tiêu tốn hơn chục triệu. Năm sau anh tôi lại bị chính con hổ mang ấy hỏi thăm ở tay kia. Lần này thì tôi đánh xe đi mời thầy thuốc rắn bản Lúng.

  • Đó là làng Lệ Mật thuộc xã Việt Hưng, (thị trấn Gia Lâm, ngoại thành Hà Nội). Làng này có nghề nuôi bắt rắn, tới nay đã qua 900 năm.

  • Các hoàng đế nước Việt xưa phần lớn giỏi chữ Hán, biết thơ văn, trải Lý, Trần, Lê, Nguyễn đời nào cũng có các tác phẩm ngự chế quý giá. Nhưng tất cả các tác phẩm ấy đều nằm trong quỹ đạo Nho Giáo, dùng chữ Hán và chữ Nôm để diễn đạt cảm xúc về tư tưởng của mình.

  • "Sang Xuân ta sẽ ăn Tết khai hạ vào ngày mùng 7 tháng Giêng".     Vì sao vua Quang Trung dám tuyên bố cả quyết như trên trước mặt ba quân? Tất cả bí mật của cuộc hành binh khôi phục Thăng Long đều được "gói trọn" trong một chiếc bánh chưng.

  • LGT: Nhà văn Thái Vũ với những cuốn tiểu thuyết lịch sử nổi tiếng như Cờ nghĩa Ba Đình, Biến động - Giặc Chày Vôi, Huế 1885... nay đã gần 80. Tuổi già sức yếu song ông đã hoàn thành tập Hồi ức, gồm 4 phần dày dặn. Trong đấy phần II: HUẾ - QUẢNG NGÃI VÀ LK5 là những trang hồi ức đầy “xốn xang” trước và sau CM tháng Tám.Sông Hương xin trích đăng một phần nhỏ gửi tới bạn đọc nhân kỷ niệm ngày CM tháng Tám thành công và Quốc khánh 2 – 9. 

  • Nếu kể cả những công trình nghiên cứu văn hóa, địa lý, lịch sử có đề cập đến các địa danh ở các tỉnh Trung Trung Bộ thì xưa nhất phải kể đến “ Ô Châu cận lục” của Dương Văn An đời Mạc chép về sông núi, thành trì, phong tục của  xứ Thuận Quảng, từ Quảng Bình đến Quảng Nam. Kế đến là “ Phủ biên tạp lục” của Lê Quý Đôn tập hợp những tài liệu về địa lý, chính trị, kinh tế, văn hóa trong thời gian làm đô đốc xứ Thuận Hóa cuối thế kỷ 18.