Về một nhà thơ mới qua đời

13:50 20/08/2011
Vào lúc 14 giờ 25 phút ngày 13 tháng 7 năm 2011 (nhằm ngày 13 tháng 6 năm Tân Mão), nhà thơ Văn Hữu Tứ, hội viên Hội Nhà văn TT. Huế đã qua đời sau một thời gian lâm trọng bệnh. Từ đây, trong mái nhà anh gần hồ Tịnh Tâm, trên các con đường của Thành phố Huế cũng như những nơi anh thường lui tới, tác giả của các tập thơ “Bên dòng thời gian”, “Tôi yêu cuộc đời đến chết” vĩnh viễn vắng mặt.

Nhà thơ Văn Hữu Tứ - Bửu Chỉ ký họa

[if gte mso 9]> Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 <![endif][if gte mso 9]> <![endif][if gte mso 10]> <![endif]

Các tập thơ đó đồng thời cũng là tự sự về một phần đời anh như Văn Hữu Tứ đã suy nghĩ trước khi xuất bản. Suy nghĩ của anh làm nhớ lại những năm Văn Hữu Tứ còn bước đi dưới nền trời của tuổi thanh niên. Trước năm 1972, thầy giáo Văn Hữu Tứ đã từng thể hiện lòng yêu nước yêu người trong những bài thơ được lưu truyền trong một số người bạn. Tập thơ “Dưới bóng cờ cách mạng” của Văn Hữu Tứ và Nhất Huy đã ra đời trong bối cảnh đó mà sau này, tập “1000 năm thương nhớ” nhân kỷ niệm 1000 năm Thăng Long trích đăng lại một bài thơ trong đó của anh.

Giờ đây Văn Hữu Tứ  nằm lặng im sau khi đã ngược xuôi trên những chặng đương đời, lặng im như cõi vĩnh hằng. Sắp tới, mỗi khi nhớ lại chút hơi ấm trong bàn tay Văn Hữu Tứ với những cái bắt tay thường nồng nhiệt, những người bạn của anh có lẽ không còn cách nào khác ngoài việc lật lại những trang thơ của một người đã qua đời. Nơi đó, Văn Hữu Tứ đã hóa thân trong những dòng chữ của ngọn đèn khuya, gian nan và vinh hiển.

1h khuya, 14.7.2011
Lê Văn Ngăn


VĂN HỮU TỨ


Dòng sông tuổi mười lăm

Tưởng nhớ N.K

Tôi ngồi bên bờ sông
đọc lại những bài thơ của người đã chết
những bài thơ
những khúc hát than đá đen

Chàng thường ngắt những cành hoa bất tử
ném xuống dòng sông
cành hoa trôi đi
báo hiệu thân phận người tử tù
hiên ngang bước vào cửa địa ngục
Chàng thường ném những tia nhìn giễu
cợt tới mặt trăng, mặt trời
tới mặt đất đầy hầm hố

Em không thể nào đọc được niềm băng giá
trong thân thể chàng đã chìm dưới
                                                đáy sông xanh
Thân thể chàng lặng lẽ trôi đi
như những cánh hoa bất tử

Tôi ngồi bên bờ sông một thời chàng
                                                ca hát đêm đêm
dòng sông in bóng người đãng trí
chàng ôm chặt tình yêu đất xám
còn em quay về vườn địa đàng

Bờ sông kia mọc lên một cành hoa cô độc

Người đãng trí ôm những lời ngụ ngôn
                        đi qua tám cửa thành
với vòng nguyệt quế là dòng sông
                                    tuổi mười lăm

Ai biết được tình yêu của chàng là
                        ba mươi, mười lăm
                                    hay mười bảy?


Hát bên đời


Đời mênh mông đêm tối
tôi gọi em bằng tên các vì sao
nồng ấm mắt em ngọn lửa
và tim tôi là gió phiêu bồng

Em hãy làm quê nhà
gìn giữ tình yêu thời con gái
để lại trong tôi nỗi nhớ khôn nguôi

Đời mãi mãi dội vang tiếng thét đấu trường
tôi xin tặng em trái tim đấu sĩ
với số phận rủi may
và bình minh ròng ròng máu đỏ
xin em hiểu rằng tim tôi
                        là thảm kịch của em
Tôi bước đi một mình
số phận đè xuống hai vai
                        như một tảng đá thời cổ đại
                        đêm đêm
                        tôi có em làm giấc mơ trú ẩn

Có thể tôi sẽ gục ngã bởi đau thương
nhưng với tình yêu của tôi đã trao em
                        như ngọn lửa ấm áp
Tôi sẽ bình tâm
đi trong mênh mông đêm tối
đi tới đấu trường


Bài ca đốm lửa


Em rạch nát vùng trán tôi
Nụ cười hồn nhiên tuổi trẻ
Những hạt mưa mùa phục sinh bất chợt
Thời gian đầy rồi vơi
Cổng thành xưa xõa tóc
Tôi ngược xuôi một phần thế kỷ
                        xuyên con kênh độc thoại
Phía hai bờ mưa giăng xối xả
                                                tôi đi
Nắng rồi mưa
            dòng sông vẫn một màu năm tháng
Em đã đến và em đã đi
Bóng mây vàng rồi xanh
            phút giây đợi giờ nguyệt thực
Chim đã về
            và chim đã khuất xa
Còn réo rắt tiếng tơ đồng rụng rơi
                        Lăn hoài như giọt nước
Ơi màu hoa đỏ hoa ban
Rì rào âm thanh sóng
Làn hương thiết mộc lan ngây ngất
Ai cất tiếng vu vơ
                        khúc hát mục đồng
Cháy lên những bài ca đốm lửa
Bên kia bờ trăng sao ngơ ngẩn
Dòng sông xanh im bóng


(270/08-11)





Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NGUYỄN THỊ THANH LƯU

    Đã từ rất lâu rồi, tôi hài lòng với việc đọc thơ trong màu xám của một nỗi tuyệt vọng - nỗi tuyệt vọng không bao giờ phân tách nổi trắng đen giữa đám sương mù xám đặc dường như chỉ có dấu hiệu đậm dần lên trong những lớp lang chữ nghĩa, trong cách ngắt nhịp, buông vần.

  • MAI VĂN HOAN

    Lẽ ra tôi không viết bài này. Thiết nghĩ văn chương thiên biến, vạn hóa, mỗi người hiểu một cách là chuyện bình thường. Tốt nhất là nên tôn trọng cách nghĩ, cách cảm thụ của người khác.

  • TRIỀU NGUYÊN

    1. Đặt vấn đề
    Nói lái được sử dụng rộng rãi trong giao tiếp thông thường, và trong văn chương (một lối giao tiếp đặc biệt). Để tiện nắm bắt vấn đề, cũng cần trình bày ở đây hai nội dung, là các hình thức nói lái ở tiếng Việt, và việc sử dụng chúng trong văn chương.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊ  

    (Đọc tiểu thuyết “Huế ngày ấy” của Lê Khánh Căn, Nxb. Quân đội nhân dân, 2006).

  • HỒ ĐĂNG THANH NGỌC

    (Đọc “Song Tử” của Như Quỳnh de Prelle)

  • VŨ TRỌNG QUANG

    Trần Thiên Thị viết tắt TTT hay đọc là 3 Tê, tôi liên tưởng đến những T thơ ca:

  • GIÁNG VÂN

    Tôi gọi chị là “ Người truyền lửa”.

  • LGT: Trong khi giở lại tài liệu cũ, tình cờ chuỗi thơ xuân năm Ất Dậu 2005 của Thầy Trần Văn Khê xướng họa với chị Tôn Nữ Hỷ Khương và anh Đỗ Hồng Ngọc rơi vào mắt.

  • Là một nhà văn có sự nghiệp cầm bút truân chuyên và rực rỡ, sau cuốn tiểu thuyết “Chuyện ngõ nghèo”, có thể coi như cuốn tự truyện của nhà văn, Nguyễn Xuân Khánh chủ trương gác bút. Bởi ông biết mỗi người đều có giới hạn của mình, đến lúc thấy “mòn”, thấy “cùn” thì cũng là lúc nên nghỉ ngơi.

  • Nhà văn Ngô Minh nhớ ông và bạn văn cứ gặp nhau là đọc thơ và nói chuyện đói khổ, còn nhà thơ Anh Ngọc kể việc bị bao cấp về tư tưởng khiến nhiều người khát khao bày tỏ nỗi lòng riêng.

  • Tháng 4.1938, Toàn quyền Đông Dương đã “đặt hàng” học giả Nguyễn Văn Huyên thực hiện công trình Văn minh Việt Nam để dùng làm sách giáo khoa cho bộ môn văn hóa VN trong các trường trung học. Một năm sau, công trình hoàn thành nhưng lại không được người Pháp cho phép xuất bản.

  • NGUYỄN VĂN MẠNH
     
    Kỷ niệm 140 năm ngày sinh Cụ Huỳnh Thúc Kháng

  • MAI VĂN HOAN

    Vào một ngày cuối tháng 5/2016 nhà thơ Vĩnh Nguyên mang tặng tôi tác phẩm Truyện kể của người đánh cắp tượng Phật Thích Ca Mâu Ni vừa mới “xuất xưởng”.

  • Trong đời sống học thuật, nhất là khoa học xã hội, có rất nhiều thân danh dành cho số đông, công chúng (quen xem tivi, nghe đài đọc báo) nhưng cũng có những tiếng nói chỉ được biết đến ở phạm vi rất hẹp, thường là của giới chuyên môn sâu. Học giả Đoàn Văn Chúc là một trường hợp như vậy.

  • Dồn dập trong ba tháng Tám, Chín, Mười vừa qua, tám trong loạt mười cuốn sách của nhà nghiên cứu về Lịch sử Việt Nam thời Tây Sơn Nguyễn Duy Chính liên tiếp ra đời (hai cuốn kia đã ra không lâu trước đó). Cuộc ra sách ồ ạt này cộng thêm việc tác giả về thăm quê hương đã thu hút sự chú ý của bạn đọc và các nhà nghiên cứu ở Việt Nam.

  • NHƯ MÂY

    Chiều 14/8/2016 không gian thơ nhạc bỗng trải rộng vô cùng ở Huế. Hàng trăm độc giả mến mộ thơ Du Tử Lê và bạn bè văn nghệ sĩ từ các tỉnh Kiên Giang, Đắk Lắk, Quảng Nam, Quảng Trị, Đà Nẵng, Hà Nội đã về bên sông Hương cùng hội ngộ với nhà thơ Du Tử Lê.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊ
          Trích Tự truyện “Số phận không định trước”

    Từ ngày “chuyển ngành” thành anh “cán bộ văn nghệ” (1974), một công việc tôi thường được tham gia là “đi thực tế”.

  • NGÔ MINH

    Nhà văn Nhất Lâm (tên thật là Đoàn Việt Lâm) hơn tôi một giáp sống, nhưng anh với tôi là hai người bạn vong niên tri kỷ.

  • NGUYÊN HƯƠNG

    Ở Huế, cho đến hôm nay, vẫn có thể tìm thấy những con người rất lạ. Cái lạ ở đây không phải là sự dị biệt, trái khoáy oái oăm mà là sự lạ về tư duy, tâm hồn, tư tưởng. Thiên nhiên và lịch sử đã vô cùng khoản đãi để Huế trở thành một vùng đất sản sinh ra nhiều cá nhân có tầm ảnh hưởng lan tỏa. Và trong số những tên tuổi của Huế ấy, không thể không nhắc đến cái tên Thái Kim Lan.