Về một cuốn sách phê bình

10:04 13/04/2010
HÀ VĂN THÙY(Nhân đọc Văn học - phê bình, nhận diện của Trần Mạnh Hảo)

Nhà phê bình Trần Mạnh Hảo - Ảnh: gio-o.com

Hơn năm trước, trong khi viết bài trao đổi lại với nhà thơ Trần Mạnh Hảo, chúng tôi canh cánh nỗi lo: điều gì sẽ xảy ra khi những bài ông Hảo phê bình sách giáo khoa Văn học được gom lại in thành sách? Nay nỗi lo đã thành sự thực: cuốn Văn học-phê bình, nhận diện ra đời tại một nhà xuất bản tiếng tăm - Nhà xuất bản Văn học.

Ngót 500 trang sách với 35 bài viết đều một giọng dè bỉu, làm mất mặt hàng chục nhà giáo đứng đầu nền giáo dục nước nhà, khiến người đọc khó tiếp thu.

Chúng tôi xin trao đổi đôi điều về cuốn sách trên.

1/ Bất cập từ sự thái quá

Cũng như nhiều người đọc công tâm, chúng tôi đã từng hoan nghênh ủng hộ một số bài viết phê bình sách giáo khoa văn học của ông Trần Mạnh Hảo.

(Xem Hà Văn Thùy: Về hiện tượng nhà thơ Trần Mạnh Hảo phê bình sách giáo khoa văn học - Văn hóa văn nghệ Công an tháng 3/1999). Bài Cần phải hiểu đúng thơ Nguyễn Khuyến là bài viết cực hay. Chất thơ của bút pháp cộng với tấm lòng người viết tạo ra một áng bình luận văn chương tuyệt bút. Ngoài việc chỉ ra chi tiết hoa khô quá đỗi vụng về của sách giáo khoa, tác giả đã phát hiện ra tầng ý nghĩa thật sâu kín của thơ cụ Yên Đồ. Có thể nói, trước bài viết của ông Hảo, chúng ta chỉ cảm nhận 3 bài thơ thu ở mức của tác giả sách giáo khoa. Phát hiện của Trần Mạnh Hảo đã đẩy nhận thức về thơ Nguyễn Khuyến tới độ sâu tận cùng. Nguyễn Khuyến "nằm chung với khói mây" cũng là bài viết nhiều xúc cảm. "Thơ duyên" trong sách giáo khoa là bài viết thuyết phục, cho người đọc thấy sự giảng giải còn khiên cưỡng của sách giáo khoa và giúp ta hiểu đúng hơn về cái vui cái buồn trong thơ Xuân Diệu. Cần giảng dạy đúng tinh thần bài thơ "Tiếng hát con tàu"cũng có những ý mới, vượt lên cách hiểu nặng về xã hội học của sách giáo khoa. Có thể kể thêm những bài về Tống biệt hành, về Tràng giang hoặc có thể tìm được những ý hay rải rác trong một số bài khác.

Những bài viết như vậy của ông Hảo giúp cho người đọc nhận thức sâu hơn văn chương trong sách giáo khoa. Và điều có ý nghĩa không nhỏ là ông Hảo đã đóng lên tiếng chuông báo động với xã hội rằng sách giáo khoa Văn học của chúng ta còn nhiều sai sót, cần phải sửa chữa thậm chí làm lại. Một mình đơn phương độc mã lao vào trận địa gai góc như vậy, Trần Mạnh Hảo đã có công nhiều với nền giáo dục.

Tuy nhiên, có sự thật là: ngay trong những bài có ý đúng, ông Hảo nhiều khi bộc lộ những điều sai. Có khi là sự ngộ nhận chủ quan, có khi lại là sự áp đặt nhận thức sai lầm của mình lên những kiến giải khá thỏa đáng của sách giáo khoa. Chúng tôi đã nhiều lần chân tình trao đổi lại với ông Hảo (Đôi điều trao đổi lại với nhà thơ Trần Mạnh Hảo về cái nỗi mõm mòm Xuân Hương- VHVNCA 11/ 1999 và Từ những sự viện dẫn thiếu thuyết phục- VHVNCA số 1/ 2000) Trong những bài viết đó, chúng tôi lưu ý rằng: Sách giáo khoa đã không sai khi giảng bài Tiếng hát con tàu mà mới bóc được tầng nghĩa bên ngoài để trên cơ sở đó ông Hảo khám phá tầng sâu hơn. Chúng tôi cũng bàn lại rằng, sự hiểu cái mõm mòm Xuân Hương của ông Hảo mang tính tùy tiện, dung tục. Chúng tôi cũng có bài viết (chưa in) nói rằng: trượt theo vết sai của Xuân Diệu, ông Hảo giảng bài thơ Cây chuối của Nguyễn Trãi với buồng chuối biến thành buồng giai nhân, buồng văn nhân đã sai lầm hơn cả sách mà ông phê phán. Ngay cả ý tưởng “ Văn học trước hết không phản ánh hiện thực mà là nghiền ngẫm về hiện thực” của Lê Ngọc Trà mà ông Hảo chê bai dè bỉu cũng chẳng hề là sự phủ định Lê Nin mà là sự phát triển Lê Nin ở mức cao hơn. Ngay cái điều ông Hảo nhiều lần khoe: do bài viết của ông mà cơ quan chức năng chỉ thị cho Bộ Giáo dục đưa Tuyên ngôn độc lập trở lại sách giáo khoa cũng chưa thể coi là giải pháp tốt nhất. Trong văn chương thậm chí cả trong khoa học không phải bao giờ cũng tìm ra lời nói cuối cùng. Hiện nay trong công chúng vần tồn tại ý kiến: “ Không thể bỏ Bình Ngô đại cáo, Hịch tướng sĩ văn ra khỏi sách giáo khoa vì như vậy không những bỏ tác giả mà bỏ cả một thời đại văn học. Còn thời chúng ta, tư tưởng Hồ Chí Minh thấm đẫm trong từng hơi thở nên việc dành mảnh đất chật hẹp của sách giáo khoa để học sinh chiêm ngưỡng một Hồ Chí Minh thi nhân là điều hợp lý”. Nếu suy nghĩ đó thỏa đáng thì sự báo động của ông Hảo chưa hẳn đã là báo động thật!

Có thể thấy rằng ban đầu ông Hảo viết có những bài thuyết phục. Nhưng khi mở rộng ra, vượt quá vòng phấn cảm thụ văn chương sở trường của mình, càng ngày ông Hảo càng bộc lộ sai lầm. Cuốn Văn học- phê bình, nhận diện là sự tập hợp những sai lầm đó. Bài viết “Cần trả lại giá trị nghệ thuật đích thực cho kiệt tác “ Cung oán ngâm khúc” là bài viết nhạt nhẽo, không có ý tưởng đáng để ý. Bài “ Bàn về nghệ thuật phê bình liếc nhìn” với nhà Tố Hữu học Nguyễn Văn Hạnh không có gì đáng chú ý về học thuật mà nổi lên sự cay cú trả thù công kích cá nhân, điều không nên có trong văn hóa phê bình. Bài “ Có thật nền văn học Việt Nam “ rất đỗi đơn sơ”, “ ít được phát huy tận độ” là đặc trưng cho bút pháp ngoa ngoắt của Trần Mạnh Hảo. Phải nói rằng, sau những mặc cảm tự ty và cả sau những tự tôn vô lối, sách giáo khoa (Văn 10) lần đầu tiên đưa ra nhận định tương đối sát hợp về văn học nghệ thuật Việt Nam thì trong bài viết của mình, Trần Mạnh Hảo lại bài bác sách giáo khoa với tinh thần tự tôn vô lối cũ mèm cần gạt bỏ! Bài “ Cơ sở văn hóa Việt Nam: khoa học hay truyền thuyết? Cũng là một tiêu biểu cho phong cách tranh luận và sự hụt hẫng kiến thức của ông Hảo. Ở đây ông Hảo dẫn ra hàng loạt định nghĩa trong Từ điển tiếng Việt để bắt bẻ người viết sách! Việc làm này là khiên cưỡng thiếu khoa học bởi Từ điển tiếng Việt là từ điển phổ thông. Khi đi vào những thuật ngữ chuyên sâu, người ta phải dùng bộ Từ điển chuyên dùng. Từ điển phổ thông không thể là tiêu chuẩn duy nhất đúng cho mọi trường hợp. Dùng thước đo khác nhau để định giá là điều ông Hảo nhiều lần bài bác thì chính ông lại mắc. Đã vậy, khi có người chép điều giải nghĩa trong Từ điển tiếng Việt thì ông lại cho là ăn cắp! Cầm cân nảy mực như ông, ai còn biết đặt chân đặt tay vào đâu? Mặt khác, nhiều lần ông tiền hậu bất nhất. Ở trang 323 ông viết: “ Như vậy, tôn giáo phồn thực thờ cơ quan sinh dục nam nữ và thờ hành động giao phối do ông Thêm gán ghép cho dân tộc ta suốt 4. 000 năm lịch sử là việc làm rất chủ quan”. Nhưng khi để bảo vệ mình, ông Hảo lại vội vã học theo Đỗ Lai Thúy để khẳng định: “... Tín ngưỡng phồn thực là cơ sở xâu xa của tâm linh Việt, là nguồn gốc của văn hóa dâm tục và trên cái nền này mọc ra Hồ Xuân Hương...”i (Văn hóa văn nghệ Công an 12/ 99, trang 83). Nghiên cứu hệ thống tư duy và tri thức của ông Hảo, chúng tôi cảm nhận rằng: do thiếu một vốn văn hóa hệ thống và cơ bản nên nhièu khi kiến thức ông bấp bênh. Bên cạnh những điều rất sâu đôi khi bộc lộ cái ấu trĩ đến không ngờ. Nhưng cả hai cực đó phần nhiều lại là kiến thức cóp nhặt từ sách này sách khác chưa được tiêu hóa. Chính vì vậy không ít bài viết của ông Hảo trở thành mê hồn trận của lý sự cù nhầy không ích lợi gì cho văn chương. Nhiều kiến giải của ông bộc lộ những sai lầm bất cập có hại.

2. Cuốn sách thiếu tính thiện

Sự xuất hiện của cây bút phê bình sách giáo khoa Văn học như ông Hảo không phải là bất thường mà dường như phản ánh đúng quy luật của cuộc sống: ở đầu thiên niên kỷ này, xã hội Việt Nam có nhu cầu định giá lại nhiều gía trị. Điều này là lành mạnh bởi cần nhìn lại để phát triển. Vấn đề là ở đây, hòn đá thử vàng ở đây là: nhìn nhận, định giá theo nhãn quan nào?

Nửa thế kỷ vừa qua, những cơn bão cách mạng luôn thét gào trong xã hội Việt Nam. Tất cả vì thắng lợi của sự nghiệp cách mạng là yêu cầu thường trực là bắt buộc với mọi thành viên cộng đồng. Văn học nói chung và sách giáo khoa nói riêng cũng không thoát khỏi đòi hỏi bức xúc đó. Chính vì vậy chúng ta phải đưa kiệt tác Chinh phụ ngâm ra khỏi học đường. Các nhà phê bình rồi nhà giáo biến Hồ Xuân Hương thành chiến sĩ chống phong kiến... Ngày nay, đọc lại nhiều bài viết trên sách báo trước đây kể cả trong sách giáo khoa ta không khỏi có lúc cười ra nước mắt về một thời non dại. Các nhà giáo, ngoài một số ít người cơ hội vì lợi ích cá nhân tự nguyện đẩy việc phục vụ chính trị tới mức cực đoan, số dông vẫn giữ được cái tâm của mình khi làm sách. Nhờ chữ trinh còn một chút này mà sách giáo khoa đạt được chuẩn mực khoa học nhất định và đã trang bị kiến thức văn học cho hàng triệu người. Giữa công lớn ấy và sai lầm của người thầy, nên cân phân thế nào cho phải lẽ? Đâu là sai lầm chủ quan của người làm sách đâu là những hạn chế mang tính thời đại? Nếu bây giò, được hưởng lợi từ cuộc đổi mới, người đi sau đứng ra vạch mặt chí trán “nhận diện” người đi trước có sai sót rồi phang (chữ quen dùng của Trần Mạnh Hảo) cho đã giận, cho bật ra sự nổi trội của mình, phải chăng là thái độ khoa học là cận nhân tình? Mười năm trước, khi bắt tay vài đổi mới, những người cầm bút đã nhắc nhau: hãy cẩn trọng khi phê bình người thầy thuốc và thầy giáo vì sau họ là người bệnh là học trò! Thật đáng buồn là trong sách của mình, nhà thơ Trần Mnạh Hảo nỡ buông giọng khi đay nghiến chì chiết, lúc mỉa mai, khi hả hê đắc thắng trước sai sót của người khác. Thực lòng chúng tôi không hình dung nổi sau những cú đòn như vậy, liệu các thầy giáo có còn tâm trí để bước lên bục giảng? Chính vì vậy, khi cầm cuốn sách trên tay, chúng tôi thấy nhức nhối. Cuốn sách thiếu tính thiện, xa lạ với truyền thống tôn sư trọng đạo của dân tộc.

3. Đôi điều bàn góp

Việc cuốn Văn học- phê bình, nhận diện ra đời là hiện tượng nổi cộm trên lãnh vực văn chương và giáo dục. Người ta có thể chê tác giả ác, chê những khiếm khuyết về học thuật nhưng không thể không thừa nhận rằng, việc xới lên, việc dóng hồi chuông báo động với xã hội một vấn đề bức xúc như vậy của ngành giáo dục là việc làm có ích. Đánh lẽ từ lâu rồi ngành giáo dục phải thấy và sửa chữa thiếu sót của mình. Chẳng những không làm việc đó mà khi có hàng loạt bài báo phê bình sách giáo khoa, lẽ ra ngành giáo dục phải tiếp xúc với tác giả tiếp thụ phê bình thì lại làm ngơ coi như không có chuyện gì đồng thời chủ trương sửa sách một cách cập rập chắp vá. Chính vì vậy việc không nên có đã xảy ra... Và bây giờ cuốn sách đã ra đời, tư tưởng đã đi vào công chúng. Người thực sự hiểu biết sẽ đánh giá nó đúng theo phẩm chất của nó. Tiếc rằng không ít người sẽ hiểu nó theo những lời đồn đại sai lầm. Chính vì vậy, chúng tôi đề nghị Bộ giáo dục và Hội nhà văn cần có cuộc hội thảo về cuốn sách này để có kết luận: điều gì ông Hảo phát hiện đúng thì phải sửa. Điều ông Hảo phê sai cũng cần nói lại cho rành rẽ.

Tháng giêng năm Rồng
H.V.T
(136/06-00)
 



Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • Những năm đầu sau ngày miền giải phóng, có mấy lần nhà thơ Xuân Diệu vào các tỉnh Nam Trung Bộ và dừng ở Nha Trang ít ngày. Đến đâu Xuân Diệu cũng nói chuyện thơ, được người nghe rất hâm mộ, đặc biệt là giới trẻ.

  • Có nhiều khi trong đời, “trôi theo cõi lòng cùng lang thang” như Thiền sư Saigyo (Nhật Bản), bất chợt thèm một ánh lửa, một vầng trăng. Soi qua hương đêm, soi qua dòng văn, soi qua từng địa chỉ... những ánh lửa nhỏ nhoi sẽ tổng hợp và trình diện hết thảy những vô biên của thế cuộc, lòng người. “Trong mắt tôi” của Hoàng Phủ Ngọc Tường đã là ánh lửa ấy, địa chỉ ấy.

  • 1. Kawabata Yasunari (1899 -1972) là một trong những nhà văn làm nên diện mạo của văn học hiện đại Nhật Bản. Ông được trao tặng giải Nobel năm 1968 (ba tác phẩm của Kawabata được giới thiệu với Viện Hoàng gia Thụy Điển để xét tặng giải thưởng là Xứ Tuyết, Ngàn cách hạc và Cố đô).

  • (Thơ Đỗ Quý Bông - Nxb Văn học, 2000)Đỗ Quý Bông chinh phục bạn hữu bằng hai câu lục bát này:Đêm ngâu lành lạnh sang canhTrở mình nghe bưởi động cành gạt mưa.

  • Thạch Quỳ là nhà thơ rất nhạy bén trong việc nắm bắt thông tin và chóng vánh tìm ra ngay bản chất đối tượng. Anh làm thơ hoàn toàn bằng mẫn cảm thiên phú. Thơ Thạch Quỳ là thứ thơ có phần nhỉnh hơn mọi lý thuyết về thơ.

  • Kỷ niệm 50 năm ngày mất nhà văn Nam Cao (30.11.1951-30.11.2001)

  • Có một con người đang ở vào cái tuổi dường như muốn giũ sạch nợ nần vay trả, trả vay, dường như chẳng bận lòng chút nào bởi những lợi danh ồn ào phiền muộn. Đó là nói theo cái nghĩa nhận dạng thông thường, tưởng như thế, nơi một con người đã qua "bát thập". Nhưng với nhà thơ Trinh Đường, nhìn như thế e tiêu cực, e sẽ làm ông giận dỗi: "Ta có sá gì đi với ở".

  • Nhà thơ Trinh Đường đã từ trần hồi 15g10’ ngày 28.9.2001 tại Hà Nội, thọ 85 tuổi. Lễ an táng nhà thơ đã được tổ chức trọng thể tại quê nhà xã Đại Lộc huyện Duy Xuyên tỉnh Quảng , theo nguyện vọng của nhà thơ trước khi nhắm mắt.

  • Phan Ngọc, như tôi biết, là người xuất thân trong gia đình Nho giáo, đã từng làm nghề dạy học, từ năm 1958 chuyển sang dịch sách, là người giỏi nhiều ngoại ngữ. Hiện nay, ông đang là chuyên viên cao cấp của Viện Đông Nam Á (Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc gia).

  • Có những con người mà ta chỉ gặp một đôi lần trong đời để rồi mãi nhớ, mãi ám ảnh về họ. Với tôi, nhà văn Trần Dần là người như vậy.

  • Trước tình hình số tập thơ được xuất bản với tốc độ chóng mặt, người ta bỗng nhiên cảm thấy e ngại mỗi khi cầm một tập thơ trên tay. E ngại, không phải vì người ta sợ nhọc sức; mà e ngại vì người ta nghĩ rằng sẽ phải đọc một tập thơ dở! Cảm giác ấy xem ra thật là bất công, nhưng thật tình nó quả là như vậy.

  • Những năm từ 1950 khi học ở trường trung học Khải Định (Quốc học Huế), tôi đã đọc một số bài thơ của Dao Ca đăng trên một số tờ báo như Đời mới, Nhân loại, Mới, Thẩm mỹ...

  • Tôi đến tìm ông vào một buổi sáng đầu đông, trong căn nhà ngập tràn bóng tre và bóng lá. Nếu không quen ắt hẳn tôi đã khá ngỡ ngàng bởi giữa phồn hoa đô hội lại có một khu vườn xanh tươi đến vậy!.

  • LTS: Rạng sáng ngày 11-7-2001, Toà soạn nhận được tin anh Đoàn Thương Hải - hội viên Hội Nhà văn Thừa Thiên Huế, sau một cơn đột quỵ, mặc dù đã được gia đình, bạn bè và các thầy thuốc Bệnh viên Trung ương Huế tận tình cứu chữa nhưng không qua khỏi, đã rời bỏ chúng ta an nhiên về bên kia thế giới!Tạp chí Sông Hương - Hội Nhà văn Thừa Thiên Huế xin có lời chia buồn sâu sắc tới gia quyến nhà văn.Sông Hương số này xin giới thiệu hai bài thơ cuối cùng của anh được rút ra từ tập thơ chép tay lưu giữ tại gia đình.TCSH

  • Thơ Đặng Huy Giang xuất hiện trên thi đàn đã nhiều năm nay; song thật sự gây ấn tượng với bạn đọc phải kể đến một vài chùm thơ mà báo Văn nghệ đăng tải trên trang thơ dự thi 1998 - 2000; đặc biệt sau đó anh cho ra mắt bạn đọc hai tập thơ một lúc: Trên mặt đất và Qua cửa.

  • Có lẽ với phần lớn không gian thơ Phan Trung Thành, làm thơ là trò chuyện ân tình với những bóng dáng cũ, thuộc về quê nhà.

  • Trong bài viết điểm lại văn học năm 2000, sự kiện và bình luận, tôi có nêu hai tác giả trẻ, cùng là nữ, cùng có tác phẩm đáng chú ý trong năm, một người tập truyện, một người tập thơ. Người thơ là Vi Thùy Linh.

  • (Đọc “Gặp lại tuổi hai mươi”(*) của Kiều Anh Hương)Ngay bài thơ in đầu tập “Vùng trời thánh thiện” có hai câu đã làm tôi giật mình, làm tôi choáng ngợp:            “Những lo toan năm tháng đời thường            Như tấm áo chật choàng lên khát vọng”

  • đầu tháng 4 năm ngoái, sau khi tuần báo “Văn nghệ” của Hội Nhà văn Việt Nam đăng truyện ngắn dự thi “Quả đồng chùy tóc bện” của Trần Hạ Tháp - một bút danh “mới toanh” trên văn đàn, tôi ghé tòa soạn “Sông Hương” hỏi nhà văn Hà Khánh Linh:- Chị biết Trần Hạ Tháp là ai không? Tác giả chắc là người Huế...

  • Trương Văn Hiến có sở học phi thường và mang trong người một hoài bão lớn lao: an bang tế thế bình thiên hạ.