Về một cuốn sách phê bình

10:04 13/04/2010
HÀ VĂN THÙY(Nhân đọc Văn học - phê bình, nhận diện của Trần Mạnh Hảo)

Nhà phê bình Trần Mạnh Hảo - Ảnh: gio-o.com

Hơn năm trước, trong khi viết bài trao đổi lại với nhà thơ Trần Mạnh Hảo, chúng tôi canh cánh nỗi lo: điều gì sẽ xảy ra khi những bài ông Hảo phê bình sách giáo khoa Văn học được gom lại in thành sách? Nay nỗi lo đã thành sự thực: cuốn Văn học-phê bình, nhận diện ra đời tại một nhà xuất bản tiếng tăm - Nhà xuất bản Văn học.

Ngót 500 trang sách với 35 bài viết đều một giọng dè bỉu, làm mất mặt hàng chục nhà giáo đứng đầu nền giáo dục nước nhà, khiến người đọc khó tiếp thu.

Chúng tôi xin trao đổi đôi điều về cuốn sách trên.

1/ Bất cập từ sự thái quá

Cũng như nhiều người đọc công tâm, chúng tôi đã từng hoan nghênh ủng hộ một số bài viết phê bình sách giáo khoa văn học của ông Trần Mạnh Hảo.

(Xem Hà Văn Thùy: Về hiện tượng nhà thơ Trần Mạnh Hảo phê bình sách giáo khoa văn học - Văn hóa văn nghệ Công an tháng 3/1999). Bài Cần phải hiểu đúng thơ Nguyễn Khuyến là bài viết cực hay. Chất thơ của bút pháp cộng với tấm lòng người viết tạo ra một áng bình luận văn chương tuyệt bút. Ngoài việc chỉ ra chi tiết hoa khô quá đỗi vụng về của sách giáo khoa, tác giả đã phát hiện ra tầng ý nghĩa thật sâu kín của thơ cụ Yên Đồ. Có thể nói, trước bài viết của ông Hảo, chúng ta chỉ cảm nhận 3 bài thơ thu ở mức của tác giả sách giáo khoa. Phát hiện của Trần Mạnh Hảo đã đẩy nhận thức về thơ Nguyễn Khuyến tới độ sâu tận cùng. Nguyễn Khuyến "nằm chung với khói mây" cũng là bài viết nhiều xúc cảm. "Thơ duyên" trong sách giáo khoa là bài viết thuyết phục, cho người đọc thấy sự giảng giải còn khiên cưỡng của sách giáo khoa và giúp ta hiểu đúng hơn về cái vui cái buồn trong thơ Xuân Diệu. Cần giảng dạy đúng tinh thần bài thơ "Tiếng hát con tàu"cũng có những ý mới, vượt lên cách hiểu nặng về xã hội học của sách giáo khoa. Có thể kể thêm những bài về Tống biệt hành, về Tràng giang hoặc có thể tìm được những ý hay rải rác trong một số bài khác.

Những bài viết như vậy của ông Hảo giúp cho người đọc nhận thức sâu hơn văn chương trong sách giáo khoa. Và điều có ý nghĩa không nhỏ là ông Hảo đã đóng lên tiếng chuông báo động với xã hội rằng sách giáo khoa Văn học của chúng ta còn nhiều sai sót, cần phải sửa chữa thậm chí làm lại. Một mình đơn phương độc mã lao vào trận địa gai góc như vậy, Trần Mạnh Hảo đã có công nhiều với nền giáo dục.

Tuy nhiên, có sự thật là: ngay trong những bài có ý đúng, ông Hảo nhiều khi bộc lộ những điều sai. Có khi là sự ngộ nhận chủ quan, có khi lại là sự áp đặt nhận thức sai lầm của mình lên những kiến giải khá thỏa đáng của sách giáo khoa. Chúng tôi đã nhiều lần chân tình trao đổi lại với ông Hảo (Đôi điều trao đổi lại với nhà thơ Trần Mạnh Hảo về cái nỗi mõm mòm Xuân Hương- VHVNCA 11/ 1999 và Từ những sự viện dẫn thiếu thuyết phục- VHVNCA số 1/ 2000) Trong những bài viết đó, chúng tôi lưu ý rằng: Sách giáo khoa đã không sai khi giảng bài Tiếng hát con tàu mà mới bóc được tầng nghĩa bên ngoài để trên cơ sở đó ông Hảo khám phá tầng sâu hơn. Chúng tôi cũng bàn lại rằng, sự hiểu cái mõm mòm Xuân Hương của ông Hảo mang tính tùy tiện, dung tục. Chúng tôi cũng có bài viết (chưa in) nói rằng: trượt theo vết sai của Xuân Diệu, ông Hảo giảng bài thơ Cây chuối của Nguyễn Trãi với buồng chuối biến thành buồng giai nhân, buồng văn nhân đã sai lầm hơn cả sách mà ông phê phán. Ngay cả ý tưởng “ Văn học trước hết không phản ánh hiện thực mà là nghiền ngẫm về hiện thực” của Lê Ngọc Trà mà ông Hảo chê bai dè bỉu cũng chẳng hề là sự phủ định Lê Nin mà là sự phát triển Lê Nin ở mức cao hơn. Ngay cái điều ông Hảo nhiều lần khoe: do bài viết của ông mà cơ quan chức năng chỉ thị cho Bộ Giáo dục đưa Tuyên ngôn độc lập trở lại sách giáo khoa cũng chưa thể coi là giải pháp tốt nhất. Trong văn chương thậm chí cả trong khoa học không phải bao giờ cũng tìm ra lời nói cuối cùng. Hiện nay trong công chúng vần tồn tại ý kiến: “ Không thể bỏ Bình Ngô đại cáo, Hịch tướng sĩ văn ra khỏi sách giáo khoa vì như vậy không những bỏ tác giả mà bỏ cả một thời đại văn học. Còn thời chúng ta, tư tưởng Hồ Chí Minh thấm đẫm trong từng hơi thở nên việc dành mảnh đất chật hẹp của sách giáo khoa để học sinh chiêm ngưỡng một Hồ Chí Minh thi nhân là điều hợp lý”. Nếu suy nghĩ đó thỏa đáng thì sự báo động của ông Hảo chưa hẳn đã là báo động thật!

Có thể thấy rằng ban đầu ông Hảo viết có những bài thuyết phục. Nhưng khi mở rộng ra, vượt quá vòng phấn cảm thụ văn chương sở trường của mình, càng ngày ông Hảo càng bộc lộ sai lầm. Cuốn Văn học- phê bình, nhận diện là sự tập hợp những sai lầm đó. Bài viết “Cần trả lại giá trị nghệ thuật đích thực cho kiệt tác “ Cung oán ngâm khúc” là bài viết nhạt nhẽo, không có ý tưởng đáng để ý. Bài “ Bàn về nghệ thuật phê bình liếc nhìn” với nhà Tố Hữu học Nguyễn Văn Hạnh không có gì đáng chú ý về học thuật mà nổi lên sự cay cú trả thù công kích cá nhân, điều không nên có trong văn hóa phê bình. Bài “ Có thật nền văn học Việt Nam “ rất đỗi đơn sơ”, “ ít được phát huy tận độ” là đặc trưng cho bút pháp ngoa ngoắt của Trần Mạnh Hảo. Phải nói rằng, sau những mặc cảm tự ty và cả sau những tự tôn vô lối, sách giáo khoa (Văn 10) lần đầu tiên đưa ra nhận định tương đối sát hợp về văn học nghệ thuật Việt Nam thì trong bài viết của mình, Trần Mạnh Hảo lại bài bác sách giáo khoa với tinh thần tự tôn vô lối cũ mèm cần gạt bỏ! Bài “ Cơ sở văn hóa Việt Nam: khoa học hay truyền thuyết? Cũng là một tiêu biểu cho phong cách tranh luận và sự hụt hẫng kiến thức của ông Hảo. Ở đây ông Hảo dẫn ra hàng loạt định nghĩa trong Từ điển tiếng Việt để bắt bẻ người viết sách! Việc làm này là khiên cưỡng thiếu khoa học bởi Từ điển tiếng Việt là từ điển phổ thông. Khi đi vào những thuật ngữ chuyên sâu, người ta phải dùng bộ Từ điển chuyên dùng. Từ điển phổ thông không thể là tiêu chuẩn duy nhất đúng cho mọi trường hợp. Dùng thước đo khác nhau để định giá là điều ông Hảo nhiều lần bài bác thì chính ông lại mắc. Đã vậy, khi có người chép điều giải nghĩa trong Từ điển tiếng Việt thì ông lại cho là ăn cắp! Cầm cân nảy mực như ông, ai còn biết đặt chân đặt tay vào đâu? Mặt khác, nhiều lần ông tiền hậu bất nhất. Ở trang 323 ông viết: “ Như vậy, tôn giáo phồn thực thờ cơ quan sinh dục nam nữ và thờ hành động giao phối do ông Thêm gán ghép cho dân tộc ta suốt 4. 000 năm lịch sử là việc làm rất chủ quan”. Nhưng khi để bảo vệ mình, ông Hảo lại vội vã học theo Đỗ Lai Thúy để khẳng định: “... Tín ngưỡng phồn thực là cơ sở xâu xa của tâm linh Việt, là nguồn gốc của văn hóa dâm tục và trên cái nền này mọc ra Hồ Xuân Hương...”i (Văn hóa văn nghệ Công an 12/ 99, trang 83). Nghiên cứu hệ thống tư duy và tri thức của ông Hảo, chúng tôi cảm nhận rằng: do thiếu một vốn văn hóa hệ thống và cơ bản nên nhièu khi kiến thức ông bấp bênh. Bên cạnh những điều rất sâu đôi khi bộc lộ cái ấu trĩ đến không ngờ. Nhưng cả hai cực đó phần nhiều lại là kiến thức cóp nhặt từ sách này sách khác chưa được tiêu hóa. Chính vì vậy không ít bài viết của ông Hảo trở thành mê hồn trận của lý sự cù nhầy không ích lợi gì cho văn chương. Nhiều kiến giải của ông bộc lộ những sai lầm bất cập có hại.

2. Cuốn sách thiếu tính thiện

Sự xuất hiện của cây bút phê bình sách giáo khoa Văn học như ông Hảo không phải là bất thường mà dường như phản ánh đúng quy luật của cuộc sống: ở đầu thiên niên kỷ này, xã hội Việt Nam có nhu cầu định giá lại nhiều gía trị. Điều này là lành mạnh bởi cần nhìn lại để phát triển. Vấn đề là ở đây, hòn đá thử vàng ở đây là: nhìn nhận, định giá theo nhãn quan nào?

Nửa thế kỷ vừa qua, những cơn bão cách mạng luôn thét gào trong xã hội Việt Nam. Tất cả vì thắng lợi của sự nghiệp cách mạng là yêu cầu thường trực là bắt buộc với mọi thành viên cộng đồng. Văn học nói chung và sách giáo khoa nói riêng cũng không thoát khỏi đòi hỏi bức xúc đó. Chính vì vậy chúng ta phải đưa kiệt tác Chinh phụ ngâm ra khỏi học đường. Các nhà phê bình rồi nhà giáo biến Hồ Xuân Hương thành chiến sĩ chống phong kiến... Ngày nay, đọc lại nhiều bài viết trên sách báo trước đây kể cả trong sách giáo khoa ta không khỏi có lúc cười ra nước mắt về một thời non dại. Các nhà giáo, ngoài một số ít người cơ hội vì lợi ích cá nhân tự nguyện đẩy việc phục vụ chính trị tới mức cực đoan, số dông vẫn giữ được cái tâm của mình khi làm sách. Nhờ chữ trinh còn một chút này mà sách giáo khoa đạt được chuẩn mực khoa học nhất định và đã trang bị kiến thức văn học cho hàng triệu người. Giữa công lớn ấy và sai lầm của người thầy, nên cân phân thế nào cho phải lẽ? Đâu là sai lầm chủ quan của người làm sách đâu là những hạn chế mang tính thời đại? Nếu bây giò, được hưởng lợi từ cuộc đổi mới, người đi sau đứng ra vạch mặt chí trán “nhận diện” người đi trước có sai sót rồi phang (chữ quen dùng của Trần Mạnh Hảo) cho đã giận, cho bật ra sự nổi trội của mình, phải chăng là thái độ khoa học là cận nhân tình? Mười năm trước, khi bắt tay vài đổi mới, những người cầm bút đã nhắc nhau: hãy cẩn trọng khi phê bình người thầy thuốc và thầy giáo vì sau họ là người bệnh là học trò! Thật đáng buồn là trong sách của mình, nhà thơ Trần Mnạh Hảo nỡ buông giọng khi đay nghiến chì chiết, lúc mỉa mai, khi hả hê đắc thắng trước sai sót của người khác. Thực lòng chúng tôi không hình dung nổi sau những cú đòn như vậy, liệu các thầy giáo có còn tâm trí để bước lên bục giảng? Chính vì vậy, khi cầm cuốn sách trên tay, chúng tôi thấy nhức nhối. Cuốn sách thiếu tính thiện, xa lạ với truyền thống tôn sư trọng đạo của dân tộc.

3. Đôi điều bàn góp

Việc cuốn Văn học- phê bình, nhận diện ra đời là hiện tượng nổi cộm trên lãnh vực văn chương và giáo dục. Người ta có thể chê tác giả ác, chê những khiếm khuyết về học thuật nhưng không thể không thừa nhận rằng, việc xới lên, việc dóng hồi chuông báo động với xã hội một vấn đề bức xúc như vậy của ngành giáo dục là việc làm có ích. Đánh lẽ từ lâu rồi ngành giáo dục phải thấy và sửa chữa thiếu sót của mình. Chẳng những không làm việc đó mà khi có hàng loạt bài báo phê bình sách giáo khoa, lẽ ra ngành giáo dục phải tiếp xúc với tác giả tiếp thụ phê bình thì lại làm ngơ coi như không có chuyện gì đồng thời chủ trương sửa sách một cách cập rập chắp vá. Chính vì vậy việc không nên có đã xảy ra... Và bây giờ cuốn sách đã ra đời, tư tưởng đã đi vào công chúng. Người thực sự hiểu biết sẽ đánh giá nó đúng theo phẩm chất của nó. Tiếc rằng không ít người sẽ hiểu nó theo những lời đồn đại sai lầm. Chính vì vậy, chúng tôi đề nghị Bộ giáo dục và Hội nhà văn cần có cuộc hội thảo về cuốn sách này để có kết luận: điều gì ông Hảo phát hiện đúng thì phải sửa. Điều ông Hảo phê sai cũng cần nói lại cho rành rẽ.

Tháng giêng năm Rồng
H.V.T
(136/06-00)
 



Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NGUYỄN ĐỨC TÙNG(Tiếp theo Sông Hương số 245 tháng 7-2009 và hết)

  • Nguyễn Khắc Phê quê ở Hương Sơn, Hà Tĩnh. Anh xuất thân trong một gia đình trí thức. Bố anh từng đậu Hoàng Giáp năm 19 tuổi. Các anh trai đều là bác sĩ, giáo sư, tiến sĩ nổi tiếng như Nguyễn Khắc Viện, Nguyễn Khắc Dương, Nguyễn Khắc Phi... Có người nói vui “Nguyễn Khắc Phê con nhà quan tính nhà lính”.

  • VĂN CẦM HẢI(Đọc “Ngôi nhà vắng giữa bến sông”, Tập truyện ngắn của Nguyễn Kiên - Nxb Hội Nhà văn, 2004)

  • NGUYỄN QUANG SÁNGMấy năm gần đây, dân ta đi nước ngoài càng ngày càng nhiều, đi hội nghị quốc tế, đi học, đi làm ăn, đi chơi, việc xuất ngoại đã trở nên bình thường. Đi đâu? Đi Mỹ, đi Pháp, đi Trung Quốc, Đài Loan, Singapore, Hàn Quốc... Nhà văn Văn Cầm Hải cũng đi, chuyến đi này của anh, anh không đi những nơi tôi kể trên, anh đi Tây Tạng, rất lạ đối với tôi.

  • HÀ KHÁNH LINHDân tộc ta có hơn bốn ngàn năm dựng nước và giữ nước, đã xảy ra nhiều cuộc nội loạn ngoại xâm, nhiều thế hệ người Việt Nam đã cầm vũ khí ra trận giết giặc cứu nước, nhưng mãi đến cuối thế kỷ 20 những chàng trai nước Việt mới phải đi giữ nước từ xa, mới đi giữ nước mà mang trong lòng nỗi nhớ nước như tứ thơ của Phạm Sĩ Sáu.

  • LÊ VĂN THÊSau sáu năm (kể từ 2002) nhà văn Cao Hạnh được kết nạp vào Hội Nhà văn Việt Nam, (cuối năm 2008); Hội Văn học nghệ thuật Quảng Trị mới có thêm một nhà văn được kết nạp. Đó là Văn Xương.

  • NGÔ MINHTrong đợt đi Trại viết ở Khu du lịch nước nóng Thanh Tân, anh em văn nghệ chúng tôi được huyện Phong Điền cho đi dạo phá Tam Giang một ngày. Nhà nghiên cứu văn hóa dân gian Nguyễn Thế là người dẫn đường. Anh dân sở tại, thuộc lòng từng tấc đất cổ xưa của huyện.

  • PHẠM PHÚ PHONG…Làng em đây, núi rừng Trung Việt cũng là đây/Xưa kia đã hùng dũng đánh Tây/Giờ lại hiên ngang xây thành chống Mỹ/Đường Trường Sơn là đường chân lý/Đã cùng quê em kết nghĩa hẹn hò… (Quê em, 1971)

  • HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNGKể từ tập thơ đầu tay (Phía nắng lên in năm 1985), Huyền thoại Cửa Tùng (*) là tập thơ thứ mười (và là tập sách thứ 17) của Ngô Minh đã ra mắt công chúng. Dù nghề làm báo có chi phối đôi chút thì giờ của anh, có thể nói chắc rằng Ngô Minh đã đi với thơ gần chẵn hai mươi năm, và thực sự đã trở thành người bạn cố tri của thơ, giữa lúc mà những đồng nghiệp khác của anh hoặc do quá nghèo đói, hoặc do đã giàu có lên, đều đã từ giã “nghề” làm thơ.

  • Võ Quê được nhiều người biết đến khi anh 19 tuổi với phong trào xuống đường của học sinh, sinh viên các đô thị miền Nam (1966). Lúc đó, anh ở trong Ban cán sự Sinh viên, học sinh Huế. Võ Quê hoạt động hết sức nhiệt tình, năng nổ bất chấp nguy hiểm với lòng yêu nước nồng nàn và niềm tin sắt đá vào chính nghĩa.

  • PHẠM PHÚ PHONGThỉnh thoảng có thấy thơ Đinh Lăng xuất hiện trên các báo và tạp chí. Một chút Hoang tưởng mùa đông, một Chút tình với Huế, một chuyến Về lại miền quê, một lần Đối diện với nỗi buồn, hoặc cảm xúc trước một Chiếc lá rụng về đêm hay một Sớm mai thức dậy... Với một giọng điệu chân thành, giản đơn đôi khi đến mức thật thà, nhưng dễ ghi lại ấn tượng trong lòng người đọc.

  • ĐẶNG TIẾNNhà xuất bản Trẻ, phối hợp với Công ty Văn hoá Phương Nam trong 2002 đã nhẩn nha ấn hành Tuyển tập Hoàng Phủ Ngọc Tường, trọn bộ bốn cuốn. Sách in đẹp, trên giấy láng, trình bày trang nhã, bìa cứng, đựng trong hộp giấy cứng.

  • NGUYỄN ĐỨC TÙNG(Tiếp theo Sông Hương số 244 tháng 6-2009)Mến tặng các nhà văn Tô Nhuận Vỹ, Khánh Phương, Trần Thị Trường, cháuDiệu Linh, và những người bạn khác,lớn lên trong những hoàn cảnh khác.

  • NGUYỄN THỤY KHANhà thơ Quang Dũng đã tạ thế tròn 15 năm. Người lính Tây Tiến tài hoa xưa ấy chẳng những để lại cho cuộc đời bao bài thơ hay với nhịp thơ, thi ảnh rất lạ như "Tây Tiến", "Mắt người Sơn Tây"... và bao nhiêu áng văn xuôi ấn tượng, mà còn là một họa sĩ nghiệp dư với màu xanh biểu hiện trong từng khung vải. Nhưng có lẽ ngoài những đồng đội Tây Tiến của ông, ít ai ở đời lại có thể biết Quang Dũng từng viết bài hát khi cảm xúc trên đỉnh Ba Vì - quả núi như chính tầm vóc của ông trong thi ca Việt Nam hiện đại. Bài hát duy nhất này của Quang Dũng được đặt tên là "Ba Vì mờ cao".

  • HOÀNG KIM DUNG      (Đọc trường ca Lửa mùa hong áo của Lê Thị Mây)Nhà thơ Lê Thị Mây đã có nhiều tập thơ được xuất bản như: Những mùa trăng mong chờ, Dịu dàng, Tặng riêng một người, Giấc mơ thiếu phụ, Du ca cây lựu tình, Khúc hát buổi tối, v.v... Chị còn viết văn xuôi với các tập  truyện: Trăng trên cát, Bìa cây gió thắm, Huyết ngọc, Phố còn hoa cưới v.v...Nhưng say mê tâm huyết nhất với chị vẫn là thơ. Gần đây tập trường ca Lửa mùa hong áo của nhà thơ Lê Thị Mây đã được nhà xuất bản Quân đội nhân dân ấn hành. (quý IV. 2003)

  • PHẠM PHÚ PHONGTrước khi có Hoa nắng hoa mưa (NXB Thanh Niên, 2001), Hà Huy Hoàng đã có tập Một nắng hai sương (NXB Văn Nghệ TP Hồ Chí minh, 1998) và hai tập in chung là Một khúc sông Trà (NXB Văn nghệ TP Hồ Chí Minh) và Buồn qua bóng đuổi (NXB Văn hoá Dân tộc, 2000). Đã có thơ đăng và giới thiệu trên các báo Văn nghệ Trẻ, Văn nghệ TP Hồ Chí Minh, Lao động, Người lao động, các tập san, tạp chí Thời văn, Tiểu thuyết thứ bảy, Cẩm thành hoặc đăng trong các tuyển thơ như Hạ trong thi ca (1994), Lục bát tình (1997), Thời áo trắng (1997), Ơn thầy (1997), Lục bát xuân ca (1999)...

  • Hoàng Phủ Ngọc Tường. Sinh ngày 9 tháng 9 năm 1937. Quê ở Triệu Long, Triệu Hải, Quảng Trị. Năm 1960, tốt nghiệp khóa I, ban Việt Hán, Trường đại học Sư phạm Sài Gòn. Năm 1964, nhận bằng cử nhân triết Đại học Văn khoa Huế. Năm 1960 - 1966, dạy trường Quốc Học Huế. Từng tham gia phong trào học sinh, sinh viên và giáo chức chống Mỹ - ngụy đòi độc lập thống nhất Tổ quốc. Năm 1966 - 1975, nhà văn thoát li lên chiến khu, hoạt động ở chiến trường Trị Thiên. Sau khi nước nhà thống nhất, từng là Chủ tịch Hội Văn nghệ Quảng Trị, Tổng biên tập Tạp chí Cửa Việt.

  • ANH DŨNGLTS:  Kết hợp tin học với Hán Nôm là việc làm khó, càng khó hơn đối với Phan Anh Dũng - một người bị khuyết tật khiếm thính do tai nạn từ thuở còn bé thơ. Bằng nghị lực và trí tuệ, anh đã theo học, tốt nghiệp cử nhân vật lý lý thuyết trường Đại học Khoa học Huế và thành công trong việc nghiên cứu xây dựng hoàn chỉnh bộ Phần mềm Hán Nôm độc lập, được giải thưởng trong cuộc thi trí tuệ Việt Nam năm 2001.Sông Hương xin giới thiệu anh với tư cách là một công tác viên mới.

  • SƠN TÙNGLTS: Trong quá trình sưu tầm, tuyển chọn bài cho tập thơ Dạ thưa Xứ Huế - một công trình thơ Huế thế kỷ XX, chúng tôi nhận thấy rằng, hầu hết các nhà thơ lớn đương thời khắp cả nước đều tới Huế và đều có cảm tác thơ. Điều này, khiến chúng tôi liên tưởng đến Bác Hồ. Bác không những là Anh hùng giải phóng dân tộc, là danh nhân văn hoá thế giới mà còn là một nhà thơ lớn. Các nhà thơ lớn thường bộc lộ năng khiếu của mình rất sớm, thậm chí từ khi còn thơ ấu. Vậy, từ thời niên thiếu (Thời niên thiếu của Bác Hồ phần lớn là ở Huế) Bác Hồ có làm thơ không?Những thắc mắc của chúng tôi được nhà văn Sơn Tùng - Một chuyên gia về Bác Hồ - khẳng định là có và ông đã kể lại việc đó bằng “ngôn ngữ sự kiện” với những nhân chứng, vật chứng lịch sử đầy sức thuyết phục.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊAnh Hoài Nguyên, người bạn chiến đấu của nhà văn Thái Vũ (tức Bùi Quang Đoài) từ thời kháng chiến chống Pháp, vui vẻ gọi điện thoại cho tôi: “Thái Vũ vừa in xong TUYỂN TẬP đó!...” Nhà văn Thái Vũ từng được bạn đọc biết đến với những bộ tiểu thuyết lịch sử đồ sộ như “Cờ nghĩa Ba Đình” (2 tập - 1100 trang), bộ ba “Biến động - Giặc Chày Vôi”, “Thất thủ kinh đô Huế 1885”, “Những ngày Cần Vương” (1200 trang), “Thành Thái, người điên đầu thế kỷ” (350 trang), “Trần Hưng Đạo - Thế trận những dòng sông” (300 trang), “Tình sử Mỵ Châu” (300 trang)... Toàn những sách dày cộp, không biết ông làm “tuyển tập” bằng cách nào?