ĐỖ LAI THÚY
Trong một vài năm gần đây, nhiều nhà phê bình và nghiên cứu văn học đã có những cố gắng đáng kể để thoát ra khỏi tình trạng tiếp cận văn học một cách xã hội học có phần dung tục, hướng đến cách tiếp cận mới xuất phát từ đặc trưng của chính bản thân văn học. Một trong nhiều đường hướng nghiên cứu có triển vọng đó là phong cách học.
Ảnh: internet
Cuốn Tìm hiểu phong cách Nguyễn Du trong Truyện Kiều của Phan Ngọc là công trình chuyên khảo đầu tiên ở ta vận dụng phong cách học một cách có hệ thống để nghiên cứu phong cách của một tác giả qua một tác phẩm tất nhiên không phải đến Phan Ngọc thì phong cách tác giả mới được nghiên cứu, nhưng những công trình trước ông thường chỉ dựa vào cái định đề nổi tiếng của G.Buy-phông(2): phong cách là con người (Le style, c‘est l‘homme), tuy hết sức đúng đắn nhưng vì quá khái quát, nên khi vận dụng vào giải quyết những trường hợp cụ thể thì thường dẫn đến tình trạng chung chung hoặc tùy tiện. Vốn là một nhà ngôn ngữ học, Phan Ngọc đã nhạy bén tiếp thu được những thành tựu mới mẻ nhất của bộ môn phong cách học hiện đại của ngôn ngữ học thế giới để nghiên cứu phong cách Nguyễn Du. Quan niệm về phong cách của ông nhờ thế có lý luận, có cơ sở khách quan của ngôn ngữ, lại được cụ thể hóa bằng hệ thống các thao tác và sự vận hành chúng, phong cách theo ông, là một cấu trúc hữu cơ của tất cả các kiểu lựa chọn tiêu biểu hình thành một cách lịch sử, và chứa đựng một giá trị lịch sử có thể cho phép ta nhận diện một thời đại một thể loại, một tác phẩm hay một tác giả. (tr.22), và phong cách học là khoa học khảo sát các kiểu lựa chọn và giá trị biểu cảm của các kiểu lựa chọn ấy. (tr.15)
Quan niệm phong cách là kiểu lựa chọn cho phép tác giả đối lập một cách triệt để cái đã được Nguyễn Du lựa chọn trong Truyện Kiều với những cái ông không lựa chọn (cái chuẩn của thời đại, cái mà những người sống trước ông, cùng ông đã chọn để tìm ra giá trị nghệ thuật của nó.
Đối lập lớn nhất mà Phan Ngọc thực hiện trong công trình của ông là sự đối lập Truyện Kiều với truyền thống văn học Trung Quốc thông qua sự so sánh tác phẩm của Nguyễn Du với Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân. Bằng cách chỉ ra những ứng xử nghệ thuật riêng của Nguyễn Du, ông đã chứng minh được một cách khoa học rằng Truyện Kiều không phải là một bản dịch ra thơ một tác phẩm văn xuôi của Trung Quốc mà là một sáng tạo độc đáo của văn học Việt Nam và của cá nhân Nguyễn Du. Đọc những trang phân tích chí lý của ông, chúng ta không còn thấy tiếc là một thiên tài như Tố Như mà không đưa được vào tác phẩm của mình bóng dáng một cây tre để cho có tính chất dân tộc, như một nhà thơ có tiếng trước đây đã than phiền(!).
Thiên tài Nguyễn Du đã cải biến câu chuyện tình và khổ nhàm chán thành câu chuyện của tài và mệnh vốn giàu chất triết lý và đang trở thành một kinh nghiệm nhân sinh sâu sắc của thời đại ông. Viết Truyện Kiều, Nguyễn Du đã phải chống lại cả cái áp lực của truyền thống tiểu thuyết chương hồi thiên về mưu mô và hành động với lối kết cấu xâu chuỗi những yếu tố độc lập để tạo ra một hướng đi mới: tiểu thuyết tâm lý với phương pháp phân tích tâm lý tàn nhẫn. Truyện Kiều, nhờ thế, đã trở thành một cuốn sách của một nghìn tâm trạng có sức mê hoặc lòng người. Và cũng nhờ thế mà toàn bộ hệ thống thi pháp Truyện Kiều cũng rẽ sang một nẻo khác, mới mẻ hơn chẳng những so với tiểu thuyết chương hồi Trung Quốc mà cả với truyền thống truyện thơ nôm Việt Nam với bố cục của kịch, phương pháp tự sự không khách quan chủ nghĩa, nhân vật ngồi một mình... và sự xuất hiện của các phạm trù văn học mới như ngôn ngữ tác giả, ngôn ngữ nhân vật, ngôn ngữ thiên nhiên...
Đối lập lớn thứ hai của Phan Ngọc là so sánh Truyện Kiều với các truyện thơ và ngâm khúc của thời đại ông để chỉ rõ thêm cái bước đổi mới mà Nguyễn Du đã làm được trong nghệ thuật của mình. Đó là xu hướng dân chủ hóa trong nội dung tư tưởng, trong thể thơ, trong ngôn ngữ của Truyện Kiều. Xuất thân trong một gia đình quý tộc nòi, được đào luyện trong dòng văn chương bác học từ tấm bé, Nguyễn Du đủ sức viết lên những câu thơ kinh người với lối kiến trúc đối xứng, điêu khắc kỳ khu kiểu Cung oán ngâm khúc. Nhưng ông đã từ bỏ con đường đó để đến với tiếng nói của những người trồng dâu và trồng gai, để viết lên Truyện Kiều. Phan Ngọc đã gọi một cách rất đúng ứng xử đó của Nguyễn Du là hành động của con cá chép nhả bỏ viên ngọc quý để sức vượt vũ môn hóa rồng. Tuy vậy, con rồng đó vẫn mang bộ da có vảy cá chép, bởi vì "các nghệ sĩ thời quân chủ chỉ múa có một tay, một tay họ bị buộc chặt vào truyền thống (tr. 266). Có hiểu được sự trói buộc của thời đại như vậy chúng ta mới thấy hết được cái thống nhất trong sự mâu thuẫn của nghệ thuật Nguyễn Du: Chỗ này thì ước lệ, cổ điển, chỗ kia thì sinh động, hiện thực... Nhưng điều đáng nói là trên cái vũ đài chật hẹp đó, Nguyễn Du đã múa rất đẹp, và nhiều vũ điệu của ông đã đi trước thời đại, vượt thời gian.
Không dừng lại ở chỗ chỉ ra phong cách Nguyễn Du trong Truyện Kiều, Phan Ngọc còn tiến thêm một bước nữa là lý giải nó bằng những cơ sở kinh tế - xã hội và lịch sử văn hóa của thời đại bấy giờ. Nhân tố cơ bản, theo ông, là sự xuất hiện của tầng lớp thương nhân phong kiến trên cơ sở phát triển nội, ngoại thương thời Trịnh - Nguyễn. Đồng tiền thương nghiệp đã dần dà phá vỡ các khuôn mẫu nho giáo và tư tưởng công xã nông thôn để tạo nên một quan niệm sống mới - lối sống thị dân, và con người tài tử trở thành nhân vật trung tâm của thời đại thay thế cho kiểu người quân tử của thời đại trước. Bằng những tri thức sâu rộng có tính chất liên ngành, bằng một ngôn ngữ sôi nổi, đầy hứng khởi, lập luận sắc bén, Phan Ngọc đã thuyết phục được bạn đọc ở nhiều luận điểm.
Tuy nhiên, đọc Tìm hiểu… bạn đọc luôn rơi vào thế lưỡng đối gay gắt. Một mặt, bị thuyết phục bởi những khám phá mới mẻ, những ý tưởng lóe sáng của tác giả, mặt khác, "lý trí lành mạnh" của bạn luôn phản ứng chống lại những cực đoan máy móc mà tần số xuất hiện của chúng đậm đến nỗi tạo ra cái có thể gọi là "phong cách Phan Ngọc". Giải phẫu cái cực đoan máy móc đó, của Phan Ngọc chúng tôi thấy nguyên nhân của nó, một mặt, chủ yếu ở những vấn đề có tính chất học thuật chưa được giải quyết sai lầm, mặt khác, phần nào ở cá tính của nhà nghiên cứu.
Lý thuyết về phong cách do Phan Ngọc trình bày là dựa trên cơ sở của ngôn ngữ học hiện đại. Đó chính là phong cách của ngôn ngữ văn học. Vậy mà ông đã vận dụng nó như là phong cách văn học, phong cách nghệ thuật, thậm chí cả phong cách đời sống là những lĩnh vực rõ ràng khác biệt nhau mà chưa giải quyết được về mặt lý luận tại sao lại có thể "vượt biên" như vậy được, tại sao lại có thể "mổ trâu bằng dao giết gà" như vậy được, phải chăng ngôn ngữ văn học, nghệ thuật đồng nhất với nhau ở bản chất ký hiệu hay tính hệ thống của chúng? chính vì sự "bỏ trắng" đó mà việc sử dụng phong cách học của Phan Ngọc chỉ đặc biệt thành công, hoàn chỉnh ở những chương có liên quan đến ngôn ngữ học như Ngôn ngữ Truyện Kiều, Câu thơ Truyện Kiều, Ngữ pháp Nguyễn Du hoặc ở nhưng chương phân tích về phương pháp tự sự, đặc điểm thể loại và bố cục của Truyện Kiều. Còn ở những chương bàn về tư tưởng hoặc nhận thức luận Truyện Kiều thì phong cách học tỏ ra lúng túng, gò ép hay sa vào máy móc cực đoan. Ví như phong cách học buộc Phan Ngọc phải chứng minh bằng được tư tưởng tài mệnh tương đối do bản thân Nguyễn Du sáng tạo ra thì thao tác lựa chọn đó mới có giá trị. Thế là tác giả phải lao vào chứng minh một điều không thể chứng minh được đó, đơn giản chỉ vì ông không tài nào dù thời gian đọc hết được thiên kinh vạn quyển sách cổ Trung Quốc và kinh Phật để cả quyết rằng Nguyễn Du không hề vay mượn tư tưởng này ở đâu cả. Thực ra trong giao lưu văn hóa, chuyện vay mượn tư tưởng là bình thường. Điều quan trọng là biến được một tư tưởng vay mượn, mòn sáo thành tư tưởng máu thịt ấm nồng hơi thở của bản thân mình và thời đại mình. Nguyễn Du đã làm được như vậy, và, với ý nghĩa đó, tài mệnh tương đối là tư tưởng của ông. Nếu cứ cố chấp mà chứng minh như vậy, e rằng trong khi chống chủ nghĩa Châu Âu trung tâm, Trung Quốc trung tâm lại sa vào tư tưởng Việt Nam trung tâm, thậm chí "Nguyễn Du trung tâm". Hoặc nói Truyện Kiều là cuốn sách của ngàn tâm trạng thì rất hay, nhưng tiến thêm một bước nữa để khái quát văn học Việt Nam là văn học tâm trạng đối lập với văn học Trung Quốc và Ấn Độ là những nền văn học của những hình tượng kỳ vỹ thì cần phải thận trọng hơn. Tóm lại, khi áp dụng phong cách học vào văn học, một khi không đủ các dữ kiện khách quan, tác giả phải cầu viện đến các suy đoán chủ quan, đôi khi cả các uy tín chính trị, thì dẫn đến cực đoan, máy móc.
Cơ sở của thao tác luận của Phan Ngọc là ở chỗ ông coi quá trình sáng tạo văn học như là một quá trình sản xuất vật chất. Từ đó ông phân giải quá trình sáng tạo ra thành những thao tác lựa chọn giản đơn để nghiên cứu. Điều đó không có gì là sai lầm, nếu ông không đồng nhất hai quá trình đó với nhau. Làm như vậy, Phan Ngọc đã phá vỡ đặc trưng của văn học, đồng nhất sản phẩm sản xuất vật chất là thứ sản phẩm hàng loạt, phi cá tính với tác phẩm văn học là sản phẩm có tính chất duy nhất, in đậm dấu ấn của chủ thể sáng tạo, xét cho cùng, như vậy là vô hình dung Phan Ngọc đã phủ nhuận luôn cả lý do tồn tại của chính công trình của ông: tìm hiểu phong cách tác giả - chủ thể sáng tạo.
Cũng cần phải nói rõ là nhà phong cách học có quyền căn cứ vào tác phẩm như là kết quả cuối cùng của một quá trình sáng tạo để phân giải nó ra thành các thao tác lựa chọn nhằm hiểu sâu giá trị nghệ thuật của tác phẩm, nhưng trong thực tế sáng tác thì nhà văn tiến hành lựa chọn (tức sáng tác) chủ yếu bằng trực giác nghệ thuật chứ không kinh qua chuỗi lựa chọn duy lý như nhà nghiên cứu đã phân tích. Bởi thế nên tác phẩm văn học mới truyền được cho bạn đọc một sự tiếp nhận tức thì và trọn vẹn, và đồng thời không phải ai học được các thao tác nghệ thuật cũng tạo ra được tác phẩm nghệ thuật. Nếu gạt bỏ trực giác thì nghệ thuật khác gì thủ công, viết một tác phẩm văn học khác gì giải một bài toán. Đòi viết một thứ lịch sử văn học như lịch sử khoa học tự nhiên, tức là giai đoạn sau tiến bộ hơn giai đoạn trước, nhà thơ sau Nguyễn Du phải hơn Nguyễn Du, Phan Ngọc chẳng những đã máy móc coi văn học như khoa học mà còn cưỡng lại thực tế lịch sử của chính văn học.
Sau cùng, những cực đoan máy móc của Phan Ngọc, một mặt, do bản thân phương pháp nghiên cứu cứ phải quy tác phẩm vào một sơ đồ ít nhiều tiên nghiệm, mặt khác, do bản tính con người của tác giả. Người đọc có cảm tưởng rằng con người nghiên cứu trong Phan Ngọc đôi khi bị lấn át bởi con người tư tưởng trong ông, mà nhà tư tưởng thì vốn dĩ thích đẩy các ý tưởng, các suy nghĩ đến tận cùng và thể hiện chúng ra bằng các hình thái gây ấn tượng nhất. Cho nên, mặc dù có phương pháp khách quan, mong muốn khách quan, Phan Ngọc vẫn luôn luôn vi phạm cái bước duy nhất từ khách quan sang chủ quan. Nhiều chỗ tác giả đang phân tích rất khách quan thì bỗng như lạc ở đâu vào những câu bình luận rất chủ quan không ăn nhập gì với tình thế lô gích của lập luận. Như đang nói về hệ thống thi pháp của thơ mới thuộc phạm trù ý hệ tư sản tiến bộ hơn thơ luật thuộc phạm trù ý thức hệ phong kiến thì tác giả bỗng chen vào một bình luận không đâu "chính điều đó mới là cái cơ bản, cái đẩy họ tức là các nhà thơ mới) đến với cách mạng một cách khá thoải mái" (tr. 218). Thế là ông đã lẫn lộn văn học với chính trị. Vì thị hiếu thẩm mỹ và chính kiến chính trị không phải bao giờ cũng song hành với nhau. Hoặc đương phân tích rất hay về bố cục theo dạng kịch của Truyện Kiều thì ông lại hạ một câu rất cực đoan "Loài người vẫn tìm thấy ở đây (tức ở kịch) vô số những lời giải đáp cho vô số trường hợp trong cuộc đời của họ, tính tư tưởng của nó (tức của kịch) cao hơn hẳn mọi thể loại khác" (tr.183).
Những câu bình luận chủ quan, nhưng triết luận ngoại đề, những khái quát non... như vậy của Phan Ngọc, dẫu sao, cũng đã tạo nên một phần đặc sắc của cuốn sách. Nó đặt ra nhiều vấn đề rất đáng được bàn bạc, thảo luận như cá tính nhà phê bình nên thể hiện như thế nào trong công trình nghiên cứu, đâu là sự tiếp giáp giữa phê bình và sáng tác, nghiên cứu văn học cổ gắn với những nhu cầu bức xúc của thời đại như thế nào... Tuy nhiên, trong một công trình mà tác giả lấy tính khách quan làm mục đính như Tìm hiểu... thì đó là một khuyết điểm đáng phải nêu ra.
Tóm lại, Tìm hiểu... với tính cách là một cuốn sách mở đường cho một hướng tiếp cận văn học mới đã có nhiều đóng góp hết sức quý báu, nhiều gợi ý sâu xa, còn những nhược điểm của nó thì lại thuộc vào loại nhược điểm tạo ra được những phản đề thách đố sự suy nghĩ của người đọc. Dĩ nhiên khác với thưởng thức một tác phẩm văn học, đọc một công trình nghiên cứu mà bị buộc phải làm một "đồng sáng tạo" như vậy thì quá mệt, nhưng một khi lật lại được những phản đề đó thì bạn đọc bỗng thấy mình hiểu sâu sắc hơn vấn đề tác giả đang đề cập đến, năng lực tư duy của bạn được nâng cao hơn, sự khó nhọc được đền bù...
5.1987
Đ.L.T
(SH34/12-88)
------------------
(1) Phan Ngọc - Tìm hiểu phong cách Nguyễn Du trong Truyện Kiều - Khoa học xã hội, 11.1985
(2) G. Buy-phông (1707-1788), nhà văn, nhà tự nhiên học, người Pháp tác giả công trình "Luận về phong cách" nổi tiếng.
THÁI DOÃN HIỂUPhàm trần chưa rõ vàng thauChân tâm chẳng biết ở đâu mà tìm. VẠN HẠNH Thiền sư
HỒ THẾ HÀ Thi ca là một loại hình nghệ thuật ngôn từ đặc biệt. Nó là điển hình của cảm xúc và tâm trạng được chứa đựng bởi một hình thức - “hình thức mang tính quan niệm” cũng rất đặc biệt. Sự “quái đản” trong sử dụng ngôn từ; sự chuyển nghĩa, tạo sinh nghĩa trong việc sử dụng các biện pháp tu từ; sự trừu tượng hoá, khái quát hoá các trạng thái tình cảm, hiện thực và khát vọng sống của con người; sự hữu hình hoá hoặc vô hình hoá các cảm xúc, đối tượng; sự âm thanh hoá theo quy luật của khoa phát âm thực nghiệm học (phonétique expérimentale)...đã làm cho thi ca có sức quyến rũ bội phần (multiple) so với các thể loại nghệ thuật ngôn từ khác.
LÊ XUÂN LÍTHỏi: Mã Giám Sinh sau khi mua được Kiều, Mã phải đưa Kiều đi ròng rã một tháng tròn mới đến Lâm Tri, nơi Tú Bà đang chờ đợi. Trên đường, Mã đâm thèm muốn chuyện “nước trước bẻ hoa”. Hắn nghĩ ra đủ mưu mẹo, lí lẽ và hắn đâm liều, Nguyễn Du viết: Đào tiên đã bén tay phàm Thì vin cành quít, cho cam sự đờiĐào tiên ở đây là quả cây đào. Sao câu dưới lại vin cành quít? Nguyễn Du có lẩm cẩm không?
CHU ĐÌNH KIÊN1. Có những tác phẩm người đọc phải thực sự “vật lộn” trên từng trang giấy, mới có thể hiểu được nhà văn muốn nói điều gì. Đó là hiện tượng “Những kẻ thiện tâm” (Les Bienveillantes) của Jonathan Littell. Một “cas” được xem là quá khó đọc. Tác phẩm đã đạt hai giải thưởng danh giá của nước Pháp là: giải Goncourt và giải thưởng của Viện hàn lâm Pháp.
PHONG LÊSinh năm 1893, Ngô Tất Tố rõ ràng là bậc tiền bối của số rất lớn, nếu không nói là tất cả những người làm nên diện mạo hiện đại của văn học Việt Nam thời 1932-1945. Tất cả - gồm những gương mặt tiêu biểu trong phong trào Thơ mới, Tự Lực văn đoàn và trào lưu hiện thực đều ra đời sau ông từ 10 đến 20 năm, thậm chí ngót 30 năm.
HẢI TRUNGHiện tượng ngôn ngữ lai tạp hay gọi nôm na là tiếng bồi, tiếng lơ lớ (Pidgins và Creoles) được ngành ngôn ngữ học đề cập đến với những đặc trưng gắn liền với xã hội. Nguồn gốc ra đời của loại hình ngôn ngữ này có nhiều nét khác biệt so với ngôn ngữ nói chung. Đây không chỉ là một hiện tượng cá thể của một cộng đồng ngôn ngữ nào, mà nó có thể phát sinh gắn liền với những diễn biến, những thay đổi, sự phát triển của lịch sử, xã hội của nhiều dân tộc, nhiều quốc gia khác nhau.
BÙI NGỌC TẤN... Đã bao nhiêu cuộc hội thảo, bao nhiêu cuộc tổng kết, bao nhiêu cuộc thi cùng với bao nhiêu giải thưởng, văn chương của chúng ta, đặc biệt là tiểu thuyết vẫn chẳng tiến lên. Rất nhiều tiền của bỏ ra, rất nhiều trí tuệ công sức đã được đầu tư để rồi không đạt được điều mong muốn. Không có được những sáng tác hay, những tác phẩm chịu được thử thách của thời gian. Sự thất thu này đều đã được tiêu liệu.
NGUYỄN HUỆ CHICao Bá Quát là một tài thơ trác việt ở nửa đầu thế kỷ XIX. Thơ ông có những cách tân nghệ thuật táo bạo, không còn là loại thơ “kỷ sự” của thế kỷ XVIII mà đã chuyển sang một giọng điệu mới, kết hợp tự sự với độc thoại, cho nên lời thơ hàm súc, đa nghĩa, và mạch thơ hướng tới những đề tài có ý nghĩa xã hội sâu rộng.
NGUYỄN TRƯƠNG ĐÀNĐã nhiều sử liệu viết về cuộc xử án vua Duy Tân và các lãnh tụ khởi xướng cuộc khởi nghĩa bất thành tháng 5-1916, mà trong đó hai chí sĩ Thái Phiên - Trần Cao Vân là hai vị đứng đầu. Tất cả các sử liệu đều cho rằng, việc hành hình đối với Thái Phiên, Trần Cao Vân, Tôn Thất Đề, Nguyễn Quang Siêu diễn ra vào sáng ngày 17-5-1916. Ngay cả trong họ tộc hai nhà chí sĩ, việc ghi nhớ để cúng kỵ, hoặc tổ chức kỷ niệm cũng được tính theo ngày như thế.
PHONG LÊBây giờ, sau 60 năm - với bao là biến động, phát triển theo gia tốc lớn của lịch sử trong thế kỷ XX - từ một nước còn bị nô lệ, rên xiết dưới hai tầng xiềng xích Pháp-Nhật đã vùng dậy làm một cuộc Cách mạng tháng Tám vĩ đại, rồi tiến hành hai cuộc kháng chiến trong suốt 30 năm, đi tới thống nhất và phát triển đất nước theo định hướng mới của chủ nghĩa xã hội, và đang triển khai một cuộc hội nhập lớn với nhân loại; - bây giờ, sau bao biến thiên ấy mà nhìn lại Đề cương về văn hoá Việt Nam năm 1943(1), quả không khó khăn, thậm chí là dễ thấy những mặt bất cập của Đề cương... trong nhìn nhận và đánh giá lịch sử dân tộc và văn hoá dân tộc, từ quá khứ đến hiện tại (ở thời điểm 1943); và nhìn rộng ra thế giới, trong cục diện sự phát triển của chủ nghĩa tư bản hiện đại; và gắn với nó, văn hoá, văn chương - học thuật cũng đang chuyển sang giai đoạn Hiện đại và Hậu hiện đại...
TƯƠNG LAITrung thực là phẩm chất hàng đầu của một người dám tự nhận mình là nhà khoa học. Mà thật ra, đâu chỉ nhà khoa học mới cần đến phẩm chất ấy, nhà chính trị, nhà kinh tế, nhà văn hoá... và bất cứ là "nhà" gì đi chăng nữa, trước hết phải là một con người biết tự trọng để không làm những việc khuất tất, không nói dối để cho mình phải hổ thẹn với chính mình. Đấy là trường hợp được vận dụng cho những người chưa bị đứt "dây thần kinh xấu hổ", chứ khi đã đứt mất cái đó rồi, thì sự cắn rứt lương tâm cũng không còn, lấy đâu ra sự tự phản tỉnh để mà còn biết xấu hổ. Mà trò đời, "đã trót thì phải trét", đã nói dối thì rồi cứ phải nói dối quanh, vì "dại rồi còn biết khôn làm sao đây".
MÃ GIANG LÂNVăn học tồn tại được nhiều khi phụ thuộc vào độc giả. Độc giả tiếp nhận tác phẩm như thế nào? Tiếp nhận và truyền đạt cho người khác. Có khi tiếp nhận rồi nhưng lại rất khó truyền đạt. Trường hợp này thường diễn ra với tác phẩm thơ. Thực ra tiếp nhận là một quá trình. Mỗi lần đọc là một lần tiếp nhận, phát hiện.
HÀ VĂN LƯỠNGTrong dòng chảy của văn học Nga thế kỷ XX, bộ phận văn học Nga ở hải ngoại chiếm một vị trí nhất định, tạo nên sự thống nhất, đa dạng của thế kỷ văn học này (bao gồm các mảng: văn học đầu thế kỷ, văn học thời kỳ Xô Viết, văn học Nga ở hải ngoại và văn học Nga hậu Xô Viết). Nhưng việc nhận chân những giá trị của mảng văn học này với tư cách là một bộ phận của văn học Nga thế kỷ XX thì dường như diễn ra quá chậm (mãi đến những thập niên 70, 80 trở đi của thế kỷ XX) và phức tạp, thậm chí có ý kiến đối lập nhau.
TRẦN THANH MẠILTS: Nhà văn Trần Thanh Mại (1908-1965) là người con xứ Huế. Tên ông đã được đặt cho một con đường ở đây và một con đường ở thành phố Hồ Chí Minh. Trần Thanh Mại toàn tập (ba tập) cũng đã được Nhà xuất bản Văn học phát hành năm 2004.Vừa rồi, nhà văn Hồng Diệu, trong dịp vào thành phố Hồ Chí Minh dự lễ kỷ niệm 100 năm ngày sinh nhà văn Trần Thanh Mại, đã tìm thấy trang di cảo lưu tại gia đình. Bài nghiên cứu dưới đây, do chính nhà văn Trần Thanh Mại viết tay, có nhiều chỗ cắt dán, thêm bớt, hoặc mờ. Nhà văn Hồng Diệu đã khôi phục lại bài viết, và gửi cho Sông Hương. Chúng tôi xin cám ơn nhà văn Hồng Diệu và trân trọng giới thiệu bài này cùng bạn đọc.S.H
TRẦN HUYỀN SÂMLý luận văn học và phê bình văn học là những khái niệm đã được xác định. Đó là hai thuật ngữ chỉ hai phân môn trong Khoa nghiên cứu văn học. Mỗi khi khái niệm đã được xác định, tức là chúng đã có đặc trưng riêng, phạm trù riêng. Và vì thế, mục đích và ý nghĩa của nó cũng rất riêng.
TRẦN THÁI HỌCCó lẽ chưa bao giờ các vấn đề cơ bản của lý luận văn nghệ lại được đưa lên diễn đàn một cách công khai và dân chủ như khi đất nước bước vào thời kỳ đổi mới. Vấn đề tuyên truyền trong nghệ thuật tuy chưa nêu thành một mục riêng để thảo luận, nhưng ở nhiều bài viết và hội nghị, chúng ta thấy vẫn thường được nhắc tới.
NGUYỄN TRỌNG TẠO...Một câu ngạn ngữ Pháp nói rằng: “Khen đúng là bạn, chê đúng là thầy”. Câu ngạn ngữ này đúng trong mọi trường hợp, và riêng với văn học, Hoài Thanh còn vận thêm rằng: “Khen đúng là bạn của nhà văn, chê đúng là thầy của nhà văn”...
BẢO CHI (lược thuật)Từ chiều 13 đến chiều 15-8-2003, Hội nghị Lý luận – Phê bình văn học (LL-PBVH) toàn quốc do Hội Nhà văn Việt Nam tổ chức đã diễn ra tại khu nghỉ mát Tam Đảo có độ cao 1.000 mét và nhiệt độ lý tưởng 23oc. Đây là hội nghị nhìn lại công tác LL-PBVH 28 năm qua kể từ ngày đất nước thống nhất và sau 54 năm Hội nghị tranh luận Văn nghệ tại Việt Bắc (1949). Gần 200 nhà LL-PB, nhà văn, nhà thơ, nhà báo và khách mời họp mặt ở đây đã làm nóng lên chút đỉnh không khí ôn hoà của xứ lạnh triền miên...
ĐỖ LAI THÚY Văn là người (Buffon)Cuốn sách thứ hai của phê bình văn học Việt Nam, sau Phê bình và cảo luận (1933) của Thiếu Sơn, thuộc về Trần Thanh Mại (1911 - 1965): Trông dòng sông Vị (1936). Và, mặc dù đứng thứ hai, nhưng cuốn sách lại mở đầu cho một phương pháp phê bình văn học mới: phê bình tiểu sử học.
ĐẶNG TIẾNThuật ngữ Thi Học dùng ở đây để biểu đạt những kiến thức, suy nghĩ về Thơ, qua nhiều dạng thức và trong quá trình của nó. Chữ Pháp là Poétique, hiểu theo nghĩa hẹp và cổ điển, áp dụng chủ yếu vào văn vần. Dùng theo nghĩa rộng và hiện đại, theo quan điểm của Valéry, được Jakobson phát triển về sau, từ Poétique được dịch là Thi Pháp, chỉ chức năng thẩm mỹ của ngôn từ, và nới rộng ra những hệ thống ký hiệu khác, là lý thuyết về tính nghệ thuật nói chung. Thi Học, giới hạn trong phạm vi thi ca, là một bộ phận nhỏ của Thi Pháp.