Về một cách tiếp cận mới Truyện Kiều (1)

10:17 08/03/2015

ĐỖ LAI THÚY

Trong một vài năm gần đây, nhiều nhà phê bình và nghiên cứu văn học đã có những cố gắng đáng kể để thoát ra khỏi tình trạng tiếp cận văn học một cách xã hội học có phần dung tục, hướng đến cách tiếp cận mới xuất phát từ đặc trưng của chính bản thân văn học. Một trong nhiều đường hướng nghiên cứu có triển vọng đó là phong cách học.

Ảnh: internet

Cuốn Tìm hiểu phong cách Nguyễn Du trong Truyện Kiều của Phan Ngọc là công trình chuyên khảo đầu tiên ở ta vận dụng phong cách học một cách có hệ thống để nghiên cứu phong cách của một tác giả qua một tác phẩm tất nhiên không phải đến Phan Ngọc thì phong cách tác giả mới được nghiên cứu, nhưng những công trình trước ông thường chỉ dựa vào cái định đề nổi tiếng của G.Buy-phông(2): phong cách là con người (Le style, c‘est l‘homme), tuy hết sức đúng đắn nhưng vì quá khái quát, nên khi vận dụng vào giải quyết những trường hợp cụ thể thì thường dẫn đến tình trạng chung chung hoặc tùy tiện. Vốn là một nhà ngôn ngữ học, Phan Ngọc đã nhạy bén tiếp thu được những thành tựu mới mẻ nhất của bộ môn phong cách học hiện đại của ngôn ngữ học thế giới để nghiên cứu phong cách Nguyễn Du. Quan niệm về phong cách của ông nhờ thế có lý luận, có cơ sở khách quan của ngôn ngữ, lại được cụ thể hóa bằng hệ thống các thao tác và sự vận hành chúng, phong cách theo ông, là một cấu trúc hữu cơ của tất cả các kiểu lựa chọn tiêu biểu hình thành một cách lịch sử, và chứa đựng một giá trị lịch sử có thể cho phép ta nhận diện một thời đại một thể loại, một tác phẩm hay một tác giả. (tr.22), và phong cách học là khoa học khảo sát các kiểu lựa chọn và giá trị biểu cảm của các kiểu lựa chọn ấy. (tr.15)

Quan niệm phong cách là kiểu lựa chọn cho phép tác giả đối lập một cách triệt để cái đã được Nguyễn Du lựa chọn trong Truyện Kiều với những cái ông không lựa chọn (cái chuẩn của thời đại, cái mà những người sống trước ông, cùng ông đã chọn để tìm ra giá trị nghệ thuật của nó.

Đối lập lớn nhất mà Phan Ngọc thực hiện trong công trình của ông là sự đối lập Truyện Kiều với truyền thống văn học Trung Quốc thông qua sự so sánh tác phẩm của Nguyễn Du với Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân. Bằng cách chỉ ra những ứng xử nghệ thuật riêng của Nguyễn Du, ông đã chứng minh được một cách khoa học rằng Truyện Kiều không phải là một bản dịch ra thơ một tác phẩm văn xuôi của Trung Quốc mà là một sáng tạo độc đáo của văn học Việt Nam và của cá nhân Nguyễn Du. Đọc những trang phân tích chí lý của ông, chúng ta không còn thấy tiếc là một thiên tài như Tố Như mà không đưa được vào tác phẩm của mình bóng dáng một cây tre để cho có tính chất dân tộc, như một nhà thơ có tiếng trước đây đã than phiền(!).

Thiên tài Nguyễn Du đã cải biến câu chuyện tình và khổ nhàm chán thành câu chuyện của tài và mệnh vốn giàu chất triết lý và đang trở thành một kinh nghiệm nhân sinh sâu sắc của thời đại ông. Viết Truyện Kiều, Nguyễn Du đã phải chống lại cả cái áp lực của truyền thống tiểu thuyết chương hồi thiên về mưu mô và hành động với lối kết cấu xâu chuỗi những yếu tố độc lập để tạo ra một hướng đi mới: tiểu thuyết tâm lý với phương pháp phân tích tâm lý tàn nhẫn. Truyện Kiều, nhờ thế, đã trở thành một cuốn sách của một nghìn tâm trạng có sức mê hoặc lòng người. Và cũng nhờ thế mà toàn bộ hệ thống thi pháp Truyện Kiều cũng rẽ sang một nẻo khác, mới mẻ hơn chẳng những so với tiểu thuyết chương hồi Trung Quốc mà cả với truyền thống truyện thơ nôm Việt Nam với bố cục của kịch, phương pháp tự sự không khách quan chủ nghĩa, nhân vật ngồi một mình... và sự xuất hiện của các phạm trù văn học mới như ngôn ngữ tác giả, ngôn ngữ nhân vật, ngôn ngữ thiên nhiên...

Đối lập lớn thứ hai của Phan Ngọc là so sánh Truyện Kiều với các truyện thơ và ngâm khúc của thời đại ông để chỉ rõ thêm cái bước đổi mới mà Nguyễn Du đã làm được trong nghệ thuật của mình. Đó là xu hướng dân chủ hóa trong nội dung tư tưởng, trong thể thơ, trong ngôn ngữ của Truyện Kiều. Xuất thân trong một gia đình quý tộc nòi, được đào luyện trong dòng văn chương bác học từ tấm bé, Nguyễn Du đủ sức viết lên những câu thơ kinh người với lối kiến trúc đối xứng, điêu khắc kỳ khu kiểu Cung oán ngâm khúc. Nhưng ông đã từ bỏ con đường đó để đến với tiếng nói của những người trồng dâu và trồng gai, để viết lên Truyện Kiều. Phan Ngọc đã gọi một cách rất đúng ứng xử đó của Nguyễn Du là hành động của con cá chép nhả bỏ viên ngọc quý để sức vượt vũ môn hóa rồng. Tuy vậy, con rồng đó vẫn mang bộ da có vảy cá chép, bởi vì "các nghệ sĩ thời quân chủ chỉ múa có một tay, một tay họ bị buộc chặt vào truyền thống (tr. 266). Có hiểu được sự trói buộc của thời đại như vậy chúng ta mới thấy hết được cái thống nhất trong sự mâu thuẫn của nghệ thuật Nguyễn Du: Chỗ này thì ước lệ, cổ điển, chỗ kia thì sinh động, hiện thực... Nhưng điều đáng nói là trên cái vũ đài chật hẹp đó, Nguyễn Du đã múa rất đẹp, và nhiều vũ điệu của ông đã đi trước thời đại, vượt thời gian.

Không dừng lại ở chỗ chỉ ra phong cách Nguyễn Du trong Truyện Kiều, Phan Ngọc còn tiến thêm một bước nữa là lý giải nó bằng những cơ sở kinh tế - xã hội và lịch sử văn hóa của thời đại bấy giờ. Nhân tố cơ bản, theo ông, là sự xuất hiện của tầng lớp thương nhân phong kiến trên cơ sở phát triển nội, ngoại thương thời Trịnh - Nguyễn. Đồng tiền thương nghiệp đã dần dà phá vỡ các khuôn mẫu nho giáo và tư tưởng công xã nông thôn để tạo nên một quan niệm sống mới - lối sống thị dân, và con người tài tử trở thành nhân vật trung tâm của thời đại thay thế cho kiểu người quân tử của thời đại trước. Bằng những tri thức sâu rộng có tính chất liên ngành, bằng một ngôn ngữ sôi nổi, đầy hứng khởi, lập luận sắc bén, Phan Ngọc đã thuyết phục được bạn đọc ở nhiều luận điểm.

Tuy nhiên, đọc Tìm hiểu… bạn đọc luôn rơi vào thế lưỡng đối gay gắt. Một mặt, bị thuyết phục bởi những khám phá mới mẻ, những ý tưởng lóe sáng của tác giả, mặt khác, "lý trí lành mạnh" của bạn luôn phản ứng chống lại những cực đoan máy móc mà tần số xuất hiện của chúng đậm đến nỗi tạo ra cái có thể gọi là "phong cách Phan Ngọc". Giải phẫu cái cực đoan máy móc đó, của Phan Ngọc chúng tôi thấy nguyên nhân của nó, một mặt, chủ yếu ở những vấn đề có tính chất học thuật chưa được giải quyết sai lầm, mặt khác, phần nào ở cá tính của nhà nghiên cứu.

Lý thuyết về phong cách do Phan Ngọc trình bày là dựa trên cơ sở của ngôn ngữ học hiện đại. Đó chính là phong cách của ngôn ngữ văn học. Vậy mà ông đã vận dụng nó như là phong cách văn học, phong cách nghệ thuật, thậm chí cả phong cách đời sống là những lĩnh vực rõ ràng khác biệt nhau mà chưa giải quyết được về mặt lý luận tại sao lại có thể "vượt biên" như vậy được, tại sao lại có thể "mổ trâu bằng dao giết gà" như vậy được, phải chăng ngôn ngữ văn học, nghệ thuật đồng nhất với nhau ở bản chất ký hiệu hay tính hệ thống của chúng? chính vì sự "bỏ trắng" đó mà việc sử dụng phong cách học của Phan Ngọc chỉ đặc biệt thành công, hoàn chỉnh ở những chương có liên quan đến ngôn ngữ học như Ngôn ngữ Truyện Kiều, Câu thơ Truyện Kiều, Ngữ pháp Nguyễn Du hoặc ở nhưng chương phân tích về phương pháp tự sự, đặc điểm thể loại và bố cục của Truyện Kiều. Còn ở những chương bàn về tư tưởng hoặc nhận thức luận Truyện Kiều thì phong cách học tỏ ra lúng túng, gò ép hay sa vào máy móc cực đoan. Ví như phong cách học buộc Phan Ngọc phải chứng minh bằng được tư tưởng tài mệnh tương đối do bản thân Nguyễn Du sáng tạo ra thì thao tác lựa chọn đó mới có giá trị. Thế là tác giả phải lao vào chứng minh một điều không thể chứng minh được đó, đơn giản chỉ vì ông không tài nào dù thời gian đọc hết được thiên kinh vạn quyển sách cổ Trung Quốc và kinh Phật để cả quyết rằng Nguyễn Du không hề vay mượn tư tưởng này ở đâu cả. Thực ra trong giao lưu văn hóa, chuyện vay mượn tư tưởng là bình thường. Điều quan trọng là biến được một tư tưởng vay mượn, mòn sáo thành tư tưởng máu thịt ấm nồng hơi thở của bản thân mình và thời đại mình. Nguyễn Du đã làm được như vậy, và, với ý nghĩa đó, tài mệnh tương đối là tư tưởng của ông. Nếu cứ cố chấp mà chứng minh như vậy, e rằng trong khi chống chủ nghĩa Châu Âu trung tâm, Trung Quốc trung tâm lại sa vào tư tưởng Việt Nam trung tâm, thậm chí "Nguyễn Du trung tâm". Hoặc nói Truyện Kiều là cuốn sách của ngàn tâm trạng thì rất hay, nhưng tiến thêm một bước nữa để khái quát văn học Việt Nam là văn học tâm trạng đối lập với văn học Trung Quốc và Ấn Độ là những nền văn học của những hình tượng kỳ vỹ thì cần phải thận trọng hơn. Tóm lại, khi áp dụng phong cách học vào văn học, một khi không đủ các dữ kiện khách quan, tác giả phải cầu viện đến các suy đoán chủ quan, đôi khi cả các uy tín chính trị, thì dẫn đến cực đoan, máy móc.

Cơ sở của thao tác luận của Phan Ngọc là ở chỗ ông coi quá trình sáng tạo văn học như là một quá trình sản xuất vật chất. Từ đó ông phân giải quá trình sáng tạo ra thành những thao tác lựa chọn giản đơn để nghiên cứu. Điều đó không có gì là sai lầm, nếu ông không đồng nhất hai quá trình đó với nhau. Làm như vậy, Phan Ngọc đã phá vỡ đặc trưng của văn học, đồng nhất sản phẩm sản xuất vật chất là thứ sản phẩm hàng loạt, phi cá tính với tác phẩm văn học là sản phẩm có tính chất duy nhất, in đậm dấu ấn của chủ thể sáng tạo, xét cho cùng, như vậy là vô hình dung Phan Ngọc đã phủ nhuận luôn cả lý do tồn tại của chính công trình của ông: tìm hiểu phong cách tác giả - chủ thể sáng tạo.

Cũng cần phải nói rõ là nhà phong cách học có quyền căn cứ vào tác phẩm như là kết quả cuối cùng của một quá trình sáng tạo để phân giải nó ra thành các thao tác lựa chọn nhằm hiểu sâu giá trị nghệ thuật của tác phẩm, nhưng trong thực tế sáng tác thì nhà văn tiến hành lựa chọn (tức sáng tác) chủ yếu bằng trực giác nghệ thuật chứ không kinh qua chuỗi lựa chọn duy lý như nhà nghiên cứu đã phân tích. Bởi thế nên tác phẩm văn học mới truyền được cho bạn đọc một sự tiếp nhận tức thì và trọn vẹn, và đồng thời không phải ai học được các thao tác nghệ thuật cũng tạo ra được tác phẩm nghệ thuật. Nếu gạt bỏ trực giác thì nghệ thuật khác gì thủ công, viết một tác phẩm văn học khác gì giải một bài toán. Đòi viết một thứ lịch sử văn học như lịch sử khoa học tự nhiên, tức là giai đoạn sau tiến bộ hơn giai đoạn trước, nhà thơ sau Nguyễn Du phải hơn Nguyễn Du, Phan Ngọc chẳng những đã máy móc coi văn học như khoa học mà còn cưỡng lại thực tế lịch sử của chính văn học.

Sau cùng, những cực đoan máy móc của Phan Ngọc, một mặt, do bản thân phương pháp nghiên cứu cứ phải quy tác phẩm vào một sơ đồ ít nhiều tiên nghiệm, mặt khác, do bản tính con người của tác giả. Người đọc có cảm tưởng rằng con người nghiên cứu trong Phan Ngọc đôi khi bị lấn át bởi con người tư tưởng trong ông, mà nhà tư tưởng thì vốn dĩ thích đẩy các ý tưởng, các suy nghĩ đến tận cùng và thể hiện chúng ra bằng các hình thái gây ấn tượng nhất. Cho nên, mặc dù có phương pháp khách quan, mong muốn khách quan, Phan Ngọc vẫn luôn luôn vi phạm cái bước duy nhất từ khách quan sang chủ quan. Nhiều chỗ tác giả đang phân tích rất khách quan thì bỗng như lạc ở đâu vào những câu bình luận rất chủ quan không ăn nhập gì với tình thế lô gích của lập luận. Như đang nói về hệ thống thi pháp của thơ mới thuộc phạm trù ý hệ tư sản tiến bộ hơn thơ luật thuộc phạm trù ý thức hệ phong kiến thì tác giả bỗng chen vào một bình luận không đâu "chính điều đó mới là cái cơ bản, cái đẩy họ tức là các nhà thơ mới) đến với cách mạng một cách khá thoải mái" (tr. 218). Thế là ông đã lẫn lộn văn học với chính trị. Vì thị hiếu thẩm mỹ và chính kiến chính trị không phải bao giờ cũng song hành với nhau. Hoặc đương phân tích rất hay về bố cục theo dạng kịch của Truyện Kiều thì ông lại hạ một câu rất cực đoan "Loài người vẫn tìm thấy ở đây (tức ở kịch) vô số những lời giải đáp cho vô số trường hợp trong cuộc đời của họ, tính tư tưởng của nó (tức của kịch) cao hơn hẳn mọi thể loại khác" (tr.183).

Những câu bình luận chủ quan, nhưng triết luận ngoại đề, những khái quát non... như vậy của Phan Ngọc, dẫu sao, cũng đã tạo nên một phần đặc sắc của cuốn sách. Nó đặt ra nhiều vấn đề rất đáng được bàn bạc, thảo luận như cá tính nhà phê bình nên thể hiện như thế nào trong công trình nghiên cứu, đâu là sự tiếp giáp giữa phê bình và sáng tác, nghiên cứu văn học cổ gắn với những nhu cầu bức xúc của thời đại như thế nào... Tuy nhiên, trong một công trình mà tác giả lấy tính khách quan làm mục đính như Tìm hiểu... thì đó là một khuyết điểm đáng phải nêu ra.

Tóm lại, Tìm hiểu... với tính cách là một cuốn sách mở đường cho một hướng tiếp cận văn học mới đã có nhiều đóng góp hết sức quý báu, nhiều gợi ý sâu xa, còn những nhược điểm của nó thì lại thuộc vào loại nhược điểm tạo ra được những phản đề thách đố sự suy nghĩ của người đọc. Dĩ nhiên khác với thưởng thức một tác phẩm văn học, đọc một công trình nghiên cứu mà bị buộc phải làm một "đồng sáng tạo" như vậy thì quá mệt, nhưng một khi lật lại được những phản đề đó thì bạn đọc bỗng thấy mình hiểu sâu sắc hơn vấn đề tác giả đang đề cập đến, năng lực tư duy của bạn được nâng cao hơn, sự khó nhọc được đền bù...

5.1987
Đ.L.T
(SH34/12-88)


------------------
(1) Phan Ngọc - Tìm hiểu phong cách Nguyễn Du trong Truyện Kiều - Khoa học xã hội, 11.1985
(2) G. Buy-phông (1707-1788), nhà văn, nhà tự nhiên học, người Pháp tác giả công trình "Luận về phong cách" nổi tiếng.




 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • HOÀNG VŨ THUẬTChúng ta đã có nhiều công trình, trang viết đánh giá nhận định thơ miền Trung ngót thế kỷ qua, một vùng thơ gắn với sinh mệnh một vùng đất mà dấu ấn lịch sử luôn bùng nổ những sự kiện bất ngờ. Một vùng đất đẫm máu và nước mắt, hằn lên vầng trán con người nếp nhăn của nỗi lo toan chạy dọc thế kỷ. Thơ nảy sinh từ đó.

  • BÙI QUANG TUYẾNThơ mới là một hiện tượng nổi bật của văn học Việt Nam nói chung và thơ ca nói riêng trong thế kỷ XX. Nó vừa ra đời đã nhanh chóng khẳng định vị trí xứng dáng trong nền văn học dân tộc với các "hoàng tử thơ": Thế Lữ , Xuân Diệu, Huy Cận, Lưu Trọng Lư, Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử v.v... Đồng thời, Thơ mới là một hiện tượng thơ ca gây rất nhiều ý kiến khác nhau trong giới phê bình, nghiên cứu và độc giả theo từng thời kỳ lịch sử xã hội, cho đến bây giờ việc đánh giá vẫn còn đặt ra sôi nổi. Với phạm vi bài viết này, chúng tôi điểm lại những khái niệm về Thơ mới và sự đổi mới nghệ thuật thơ của các bậc thầy đi trước và tìm câu trả lời cho là hợp lý trong bao nhiêu ý kiến trái ngược nhau.

  • MẠNH LÊ Thơ ca hiện đại Việt Nam thế kỷ XX đã thu được những thành tựu to lớn đóng góp vào sự phát triển của lịch sử thơ ca dân tộc. Đặc biệt từ ngay sau Cách mạng tháng 8 năm 1945, Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời thay thế chế độ phong kiến thực dân hơn trăm năm đô hộ nước ta cùng với khí thế cách mạng kháng chiến cứu nước theo lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh tháng 12 năm 1946 đã thổi vào đời sống văn học một luồng sinh khí mới để từ đó thơ ca hiện đại Việt Nam mang một âm hưởng mới, một màu sắc mới.

  • NGUYỄN KHẮC THẠCHNếu gọi Huế Thơ với tư cách đối tượng thẩm mĩ thì chủ thể thẩm mĩ của nó trước hết và sau cùng vẫn là sự hoá sinh Thơ Huế. Đương nhiên, không hẳn chỉ có Thơ Huế mới là chủ thể thẩm mĩ của Huế Thơ và cũng đương nhiên không hẳn chỉ có Huế Thơ mới là đối tượng thẩm mĩ của Thơ Huế. Huế Thơ và Thơ Huế vẫn là hai phạm trù độc lập trong chừng mực nào đó và có khi cả hai đều trở thành đối tượng thẩm mĩ của một đối tượng khác.

  • ĐỖ LAI THÚYThanh sơn tự tiếu đầu tương hạc                                  Nguyễn KhuyếnNói đến Dương Khuê là nói đến hát nói. Và nói đến hát nói, thì Hồng Hồng, Tuyết Tuyết làm tôi thích hơn cả. Đấy không chỉ là một mẫu mực của thể loại, mà còn làm một không gian thẩm mỹ nhiều chiều đủ cho những phiêu lưu của cái đọc.

  • NGUYỄN NGỌC THIỆNHải Triều tên thật là Nguyễn Khoa Văn, sinh năm 1908 trong một gia đình Nho học, khoa bảng. Năm 20 tuổi, trở thành đảng viên trẻ của Tân Việt cách mạng Đảng, Nguyễn Khoa Văn bắt đầu cầm bút viết báo với bút danh Nam Xích Tử (Chàng trai đỏ). Điều này đã khiến trong lần gặp gỡ đầu tiên, người trai có "thân hình bé nhỏ và cử chỉ nhanh nhẹn theo kiểu chim chích" (1) ấy đã gây được cảm tình nồng hậu của Trần Huy Liệu- chủ nhiệm Nam Cường thư xã, người bạn cùng trang lứa tuy vừa mới quen biết, nhưng đã chung chí hướng tìm đường giải phóng cho dân tộc, tự do cho đất nước.

  • TÔ VĨNH HÀ Huế đang trở lạnh với "mưa vẫn mưa bay" giăng mờ như hư ảo những gương mặt người xuôi ngược trên con đường tôi đi. Tôi giật mình vì một tà áo trắng vừa trôi qua. Dáng đi êm nhẹ với cánh dù mỏng manh như hơi nghiêng xuống cùng nỗi cô đơn. Những nhọc nhằn của tuổi mơ chưa đến nỗi làm bờ vai trĩu mệt nhưng cũng đủ tạo nên một "giọt chiều trên lá(1), cam chịu và chờ đợi nỗi niềm nào đó hiu hắt như những hạt mưa...

  • NGUYỄN HỒNG DŨNG1. Một cuộc đời lặng lẽ và những truyện ngắn nổi danhO' Henry, tên thật là William Sydney Porter, được đánh giá là người viết truyện ngắn xuất sắc nhất của nước Mỹ những năm đầu thế kỷ XX. Ông sinh tại Greenboro, tiểu bang North Carolina vào năm 1862. Năm 15 tuổi (1877), ông thôi học và vào làm việc trong một hiệu thuốc tây. Vào tuổi hai mươi, ông bị đau nặng và sức khoẻ sa sút nên đã đến dưỡng sức ở một nông trại tại tiểu bang Texas. Ông đã sống ở đấy hai năm, đã làm quen với nhiều người và hiểu rất rõ tính cách miền Tây. Sau này, ông đã kể về họ rất sinh động trong tập truyện ngắn có tựa đề đầy xúc cảm Trái tim miền Tây.

  • MAI KHẮC ỨNGCó thể sau khi dẹp được loạn 12 sứ quân, Đinh Tiên Hoàng (968- 979) thống nhất lãnh thổ và lên ngôi hoàng đế, đã đặt được cơ sở ban đầu và xác định chủ quyền Đại Cồ Việt lên tận miền biên cương Tây Bắc vốn là địa bàn chịu ảnh hưởng Kiểu Công Hãn. Trên cơ sở 10 đạo thời Đinh nhà vua Lý Thái Tổ (1010- 1028) mới đổi thành 24 phủ, lộ. Nguyễn Trãi viết Dư địa chí (thế kỷ XV) vẫn giữ nguyên tên gọi đạo Lâm Tây. Tức vùng Tây- Bắc ngày nay.

  • TRẦN ANH VINHÂm vang của những sự kiện xẩy ra năm Ất Dậu (1885) không những vẫn còn đọng trong tâm trí người dân núi Ngự mà còn được ghi lại trong một số tác phẩm. Bài vè “Thất thủ Kinh đô” do cụ Mới đi kể rong hàng mấy chục năm ròng là một tác phẩm văn học dân gian, được nhiều người biết và ngưỡng mộ. Riêng Phan Bội Châu có viết hai bài:+ Kỷ niệm ngày 23 tháng Năm ở Huế (Thơ)+ Văn tế cô hồn ngày 23 tháng Năm ở Kinh thành Huế.

  • HOÀNG CÔNG KHANHCó một thực tế: số các nhà văn cổ kim đông tây viết tiểu thuyết lịch sử không nhiều. Ở Việt Nam càng ít. Theo ý riêng tôi nguyên nhân thì nhiều, nhưng cơ bản là nhà văn viết loại này phải đồng thời là nhà sử học, chí ít là có kiến thức sâu rộng về lịch sử. Cũng nhiều trường hợp người viết có đủ vốn liếng cả hai mặt ấy, nhưng hoặc ngại mất nhiều công sức để đọc hàng chục bộ chính sử, phải sưu tầm, dã ngoại, nghiên cứu, đối chiếu, chọn lọc hoặc đơn giản là chưa, thậm chí không quan tâm đến lịch sử.

  • TRƯƠNG ĐĂNG DUNG                 Tặng Đỗ Lai ThuýChủ nghĩa hiện đại là kết quả của những nỗ lực hiện đại hoá đời sống và tư duy xẩy ra từ những năm cuối của thế kỷ XIX, ở Châu Âu. Những thành tựu nổi bật của khoa học tự nhiên, của triết học, xã hội học và tâm lí học đã tác động đến cách nghĩ của con người hiện đại trước các vấn đề về tồn tại, đạo đức, tâm lí. Tư tưởng của Nietzsche, Husserl, hay Freud không chỉ ảnh hưởng đến tư duy hiện đại mà tiếp tục được nhắc đến nhiều ở thời hậu hiện đại.

  • ĐẶNG TIẾNTân Hình Thức là một trường phái thi ca hiện đại được phổ biến từ năm bảy năm nay, phát khởi do Tạp Chí Thơ, ấn hành tại Mỹ, chủ yếu từ số 18, xuân 2000 “chuyển đổi thế kỷ”, và được nhiều nhà văn, nhà thơ trong và ngoài nước hưởng ứng. Tên Tân Hình Thức dịch từ tiếng Anh New Formalism, một trường phái thơ Mỹ, thịnh hành những năm1980 - 1990.

  • NGUYỄN ĐĂNG ĐIỆP Một ngày kia, cát bụi vùng Hoan Diễn đã sinh tạo một “kẻ ham chơi”. Y cứ lãng đãng trong đời như một khách giang hồ mang trái tim nhạy cảm, một trái tim đầy nhạc với những đốm lửa buồn. Để rồi sau những cuộc say tràn cung mây, khi dòng cảm hứng chợt bùng lên từ những vùng u ẩn nằm sâu trong cõi nhớ, những giai âm ùa về như những luồng điện làm vỡ òa bí mật: có thương có nhớ có khóc có cười- có cái chớp mắt đã ngàn năm trôi. Đây là những câu thơ khép lại một trong những bài thơ hay nhất của Nguyễn Trọng Tạo: Đồng dao cho người lớn(1).

  • NGUYỄN KHẮC PHÊTừ lâu, ở Huế, nhiều người đã biết tiếng ba công chúa, ba nữ sĩ (Tam Khanh) con vua Minh Mạng, em gái nhà thơ nổi tiếng Tùng Thiện Vương Miên Thẩm, trong đó MAI AM là người được nhắc đến nhiều nhất. Mai Am nổi tiếng trước hết vì tài thơ và cùng vì cuộc đời riêng không được may mắn của bà, tuy bà là người sống thọ nhất trong “Tam Khanh”.

  • LÊ DỤC TÚCùng với nghệ thuật tiếp cận và phản ánh hiện thực, nghệ thuật miêu tả và khắc họa chân dung nhân vật, nghệ thuật châm biếm và sử dụng ngôn ngữ cũng là một trong những nét nghệ thuật đặc sắc ta thường gặp trong các phóng sự Việt Nam 1932 - 1945.

  • NGUYỄN VĂN DÂNTrong thế kỷ XX vừa qua, thế giới, đặc biệt là thế giới phương Tây, đã sản sinh ra biết bao phương pháp phục vụ cho nghiên cứu văn học, trong đó phương pháp cấu trúc là một trong những phương pháp được quan tâm nhiều nhất.

  • AN KHÁNHHai mươi tám năm kể từ ngày chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam, đủ để một thế hệ trưởng thành, một dòng thơ định vị. Tháng 3 vừa qua, Hội Văn nghệ Hà Nội và nhóm nhà thơ - nhà văn - cựu binh Mỹ có cuộc giao lưu thú vị, nhằm tìm ra tiếng nói "tương đồng", sự thân ái giữa các thế hệ Mỹ - Việt thông qua những thông điệp của văn chương.

  • TRẦN ĐÌNH SỬ Bạn đọc Việt Nam vốn không xa lạ với phê bình phân tâm học hơn nửa thế kỷ nay, bởi nó đã bắt đầu được giới thiệu vào nước ta từ những năm ba mươi, bốn mươi thế kỷ trước. Nhưng đáng tiếc nó đã bị kỳ thị rất nặng nề từ nhiều phía. Giống như nhân loại có thời phản ứng với Darwin vì không chấp nhận lý thuyết xem con người là một loài cao quý lại có thể tiến hóa từ một loài tầm thường như loài khỉ, người ta cũng không thể chấp nhận lý thuyết phân tâm học xem con người - một sinh vật có lý trí cao quý lại có thể bị sai khiến bởi bản năng tầm thường như các loài vật hạ đẳng!

  • PHẠM ĐÌNH ÂN(Nhân kỷ niệm lần thứ 20 ngày mất của Thế Lữ 3-6-1989 – 3-6-2009)Nói đến Thế Lữ, trước tiên là nói đến một nhà thơ tài danh, người góp phần lớn mở đầu phong trào Thơ Mới (1932-1945), cũng là nhà thơ tiêu biểu nhất của Thơ Mới buổi đầu. Ông còn là cây bút văn xuôi nghệ thuật tài hoa, là nhà báo, dịch giả và nổi bật là nhà hoạt động sân khấu xuất sắc, cụ thể là đưa nghệ thuật biểu diễn kịch nói nước nhà trở thành chuyên nghiệp theo hướng hiện đại hóa.