VÕ VINH QUANG
Thanh Bình từ đường, thờ tổ nghề hát bội của triều Nguyễn, tọa lạc ở kiệt 281 đường Chi Lăng, thành phố Huế là một địa điểm quan trọng trong truyền thống văn hóa nghệ thuật của đất Cố đô.
Thanh Bình từ đường - Ảnh: internet
Từ đường Thanh Bình thuở đầu triều Nguyễn được lập nên để vừa là nơi thờ cúng các vị tiên hiền nghề Tuồng cổ, và cũng là nơi tập hợp những quan viên của Thanh Bình thự (sảnh công Thanh Bình - đội Nhã nhạc triều Nguyễn) sinh hoạt và cư ngụ.
Nói về lai lịch Thanh Bình thự, sách Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, quyển 143: Doanh hiệu quân ở Kinh, mục “thư Thanh Bình” cho biết: “Gia Long năm đầu, mộ lập đội Việt Tường, để sung vào hầu trực ca múa. [Gia Long] năm thứ 5, nghị chuẩn: Đội Việt Tường, liệt vào hạng tòng tinh binh. Minh Mạng năm thứ 7, trích lấy biền binh ở vệ Vũ Thành 44 tên sung bổ vào đội Việt Tường. [Minh Mạng] năm thứ 9, đổi đội Việt Tường làm thự Thanh Bình. Những con cái ca kỹ ở các hạt Quảng Nam, Quảng Nghĩa [Ngãi], Bình Định, Phú An [Yên] cũng cho lệ thuộc thự ấy…”1.
Lịch sử hình thành và trùng tu ở thế kỷ XIX, XX của Thanh Bình từ đường được biên thuật trong hai văn bia hiện đặt ở khuôn viên từ đường ấy. Hiện nay (tháng 11 năm 2018), từ đường đang được tiến hành trùng tu, sửa chữa và nâng cấp. Nhận thấy việc tìm hiểu quá trình tồn tại và biến đổi của Thanh Bình từ đường không thể không nắm rõ nội dung hai văn bia này, vậy nên chúng tôi xin được giới thiệu, dịch thuật và bước đầu khái lược về giá trị của các văn bia liên quan nói trên.
Hai văn bia hiện đặt ở hai phía (nhìn từ ngoài vào) trái, phải trước mặt từ đường Thanh Bình. Bên phải là tấm bia dựng năm Minh Mạng thứ 5 (1824) và bên trái là tấm bia dựng năm Mậu Tuất (1958). Hai bia có kích cỡ tương đương nhau, gồm: bia cao 110cm, rộng 62cm, trán bia dật góc và cao 62cm, diềm bia rộng 8cm. Về mỹ thuật trang trí, bia đá năm 1824 được tạo tác bằng hoa lá lượn sóng cách điệu; phía trán bia trang trí bằng đôi chim phượng chầu mặt trời. Phần dưới chân bia tạo hình bằng hoa lá cách điệu uốn lượn trên sóng. Bia đá năm 1958 là bia trơn, không trang trí. Dưới đây là bản dịch.
1. Văn bia năm Minh Mạng thứ 5 (1824)
Hán văn:
![]() |
Phiên âm:
Minh Mệnh ngũ niên tứ nguyệt cát nhật tạo bi, ư Quý Mùi niên tam nguyệt sơ cửu nhật trùng tạo từ đường bi văn. Trường trung xuân thự, nghiễm nhiên vũ dật 2 uy nghi; Đường thượng vân khai, hòa chỉ thanh âm liệu lượng. Lịch số cổ kim lạc sự; Tẫn vi thiên hạ kì quan. Đường hoàng nhã điệu sạ khai, vận tuyên kim thạch; Cổ xúy hòa âm sơ thính, hưởng triệt vân tiêu. Tranh công đoạt diễm, quyết thái kham khoa. Ngoạn hí thưởng tâm bất nhất; nhi túc quân tể thiên thu. Tưởng tượng hoảng nhược diện tiền, anh hào vạn cổ; Y hi 3 nhan đồng mục hạ, mai tự lịch triều. Hữu tác tư đào, thanh nhạc điệt hứng. Giải dân uấn vu Ngu huyền 4, khánh vân trùng đổ; Truy thái giao 5 vu Chu yến, trạm lộ tái ca. Thẩn thời kiến: Khái thóa cung thương 6, bộ xu đạc luật. Điện đình bái vũ, chiêu gia mỹ chi quốc tường; Lang miếu hòa canh 7, bái uông dương chi đế trạch. Hạnh kim: Từ đường trùng tạo, trở đậu nhất tân. Kiêm hạt quan đa, lại đức công vô vong bội phục; Tân bi tạo vĩnh, lưu trần tích điên bá 8 canh ca.
Việt Tường đội Phân suất Cai quan Quang Đức bá Trương Văn Hiền, Ty quan Nghi Đức tử Nguyễn Văn Nhân, Viên chức Tống Phước Lân, Nguyễn Văn Uyên, Hoàng Văn Viết, Nguyễn Văn Phượng, Nguyễn Văn Nghiễm, Mai Văn Thống, Nguyễn Văn Thọ, Nguyễn Bá Phú, Lê Công Huy, Nguyễn Văn Của, Nguyễn Văn Hiếu, Nguyễn Văn Nương, Tống Phước Cải, Nguyễn Văn Phái, Lê Phúc Trạch, bổn đội đồng kiến lập.
Dịch nghĩa:
Ngày lành tháng 04 năm Minh Mệnh thứ 5 (1824) tạo dựng bia đá, [đây là] văn bia trùng tạo từ đường [hoàn thành] vào ngày 09 tháng 03 năm Quý Mùi (1823).
Trong sân xuân rạng, uy nghi múa dật chỉnh nghiêm; Trước điện mây bày, trong trẻo thanh âm hòa điệu. Trải khắp xưa nay hoan hỉ, tận cùng thiên hạ kỳ quan. Đường hoàng nhã nhạc chợt vang, lời xuyên vàng đá; Kèn trống hòa âm vừa vọng, tiếng thấu trời mây. Khéo tranh diễm lệ, quyết giữ khoa trương. Vờn giỡn, hân hoan muôn một; Vẹn tròn nghiệp đế thiên thu. Trước mặt tưởng tượng tựa hồ, anh hùng vạn cổ; Dưới mắt tỏ mờ tranh biện, quân ngựa lịch triều. Tạo tác kép đào, nhạc vang khởi hứng. Dân hết giận bởi Ngu cầm, mây lành cùng tỏ; Nước thái hòa nơi Chuyến, mưa móc lại ca.
Cũng thấy đây: Thổi tiếng cung thương, bước cùng âm luật. Điện đình lạy múa, tỏ điềm nước thịnh rạng ngời; Tông miếu nối lời, rưới ân vua tươi lênh láng.
May nay: Từ đường trùng tạo, lễ khí mới tươi. Quan quản lo nhiều, cậy đức công không quên khâm phục; Dựng bia còn mãi, lưu dấu cũ lay động hòa ca.
Đội Việt Tường [gồm]: Phân suất Cai quan là Trương Văn Hiền, tước Quang Đức bá; Ty quan là Nguyễn Văn Nhân, tước Nghi Đức tử; Viên chức là Tống Phước Lân, Nguyễn Văn Uyên, Hoàng Văn Viết, Nguyễn Văn Phương, Nguyễn Văn Nghiễm, Mai văn Thống, Nguyễn Văn Thọ, Nguyễn Bá Phú, Lê Công Huy, Nguyễn Văn Của, Nguyễn Văn Hiếu, Nguyễn Văn Nương, Tống Phước Cải, Nguyễn Văn Phái, Lê Phước Trạch cùng quan viên bổn đội đồng tạo lập.
2. Văn bia năm Mậu Tuất (Việt Nam Cộng Hòa, 1958)
Hán văn:
越南共和戊戌年八月二十日,清平弟子等竊念: 酬恩報德, 改設重修, 奉事祖業賢哲 偉人陶成教化, 並諸前輩普及同業男女過故先靈永留後世, 以表功勳。所有謹受其人, 案分其事,以壯觀瞻,列計于左。計
督工黃玉璣,書記阮文坡,財政阮仲謹,弟子仝造立.
![]() |
Phiên âm:
Việt Nam Cộng Hòa Mậu Tuất niên bát nguyệt nhị thập nhật, Thanh Bình đệ tử đẳng thiết niệm: Thù ân báo đức, cải thiết trùng tu, phụng sự tổ nghiệp, hiền triết vĩ nhân, đào thành giáo hóa, tịnh chư tiền bối phổ cập đồng nghiệp nam nữ quá cố tiên linh, vĩnh lưu hậu thế, dĩ biểu công huân. Sở hữu cẩn thụ kì nhân, án phân kì sự, dĩ tráng quan chiêm, liệt kê vu tả. Kê: Đốc công Hoàng Ngọc Cơ; Thư kí Nguyễn Văn Pha, Tài chánh Nguyễn Trọng Cẩn, đệ tử đồng tạo lập.
Dịch nghĩa:
Việt Nam Cộng Hòa, ngày 20 tháng 08 năm Mậu Tuất (1958), các đệ tử của Thanh Bình [từ đường] trộm nghĩ: [nhằm] trả ơn báo đức, [các đệ tử] thiết đặt trùng tu từ đường, để phụng thờ tổ nghiệp, cùng các hiền triết, vĩ nhân đã giáo hóa cho nghiệp đào hát (hát bội), và các tiền bối khắp nơi, đồng nghiệp nam nữ, tiên linh đã khuất, để mãi truyền lưu hậu thế, tỏ ngời nghiệp lớn công cao. [Ghi chép] hết thảy người nào đã kính trao nhận, những việc khảo phân, để xem xét đầy đủ rõ ràng, liệt kê dưới đây. Kê:
Đốc công là Hoàng Ngọc Cơ, Thư ký Nguyễn Văn Pha, Tài chính Nguyễn Trọng Cẩn cùng các đệ tử đồng tạo lập.
3. Sơ lược nhận định về giá trị của hai văn bia từ đường Thanh Bình
Qua nội dung hai văn bia ở từ đường Thanh Bình, đối chiếu với những ghi chép về thự Thanh Bình trong Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, ta thấy thự Thanh Bình vốn tên là đội Việt Tường, một đơn vị Nhã nhạc (cùng đơn vị thự Hòa Thanh) thuộc bộ Binh của Kinh sư, được thành lập vào năm đầu niên hiệu Gia Long (1802). Có lẽ từ đường vốn đã được lập từ những năm đầu triều Nguyễn, và đến 22 năm sau, tức ngày 09 tháng 03 năm Minh Mạng thứ 4 (1823), từ đường Thanh Bình được chính thức hoàn thành việc trùng tạo; rồi cho khắc bi văn vào tháng 4 năm 1824 nhằm di lưu dấu tích. Bốn năm sau, vào năm Minh Mạng thứ 9 (1828), đội Việt Tường được đổi làm thự Thanh Bình. Đấy cũng chính là tên gọi chính thức của ngôi từ đường thờ tổ ngành Hát Bội triều Nguyễn cho đến hôm nay.
![]() |
Trong hai văn bia ở từ đường, chúng tôi thấy văn bia năm Minh Mạng thứ 5 (1824) không chỉ có giá trị “khắc ghi” lịch sử tạo dựng từ đường, mà giá trị văn chương của văn bia này cũng rất đáng quan tâm tìm hiểu. Văn bia được viết theo thể tứ lục, biền ngẫu đầy tính nhạc, âm điệu nhịp nhàng, ngôn từ uyển chuyển, với nội dung ca ngợi, tự hào với nền thái hòa thịnh trị của vương triều cùng đất nước. Chẳng hạn như các đoạn: “Trường trung xuân thự, nghiễm nhiên vũ dật uy nghi/ Đường thượng vân khai, hòa chỉ thanh âm liệu lượng” 場中春曙,儼然舞佾威儀; 堂上雲開, 和止聲音嘹喨 (Trong sân xuân rạng, uy nghi múa dật chỉnh nghiêm; Trước điện mây bày, trong trẻo thanh âm hòa điệu); hay như cặp câu chuẩn đối “Điện đình bái vũ, chiêu gia mỹ chi quốc tường/ Lang miếu hòa canh, bái uông dương chi đế trạch” 殿庭拜舞,昭嘉美之國祥; 廊廟和賡; 沛汪洋之帝澤 (Điện đình lạy múa, tỏ điềm nước đẹp rạng ngời; Tông miếu nối lời, rưới ân vua tràn lênh láng)… Có thể nói tính đăng đối chuẩn mực tạo nên giai điệu trầm bổng, luyến láy, khiến độc giả tưởng chừng như bắt gặp những ca từ du dương, uyển chuyển đầy hào sảng ở văn bia này. Đấy có thể xem là điểm nhấn quan trọng trong quá trình tìm hiểu về các di vật ở nhà thờ tổ nghề Hát Bội nơi đây.
Đối với văn bia năm Mậu Tuất (1958), mặc dù nội dung ngắn gọn song cũng giúp ích cho độc giả và những người quan tâm thêm phần hiểu rõ quá trình trùng tu từ đường sau tầm 150 năm tồn tại (khoảng 1802 - 1958). Đợt trùng tu này (1958) diễn ra một thời gian sau khi triều Nguyễn cáo chung (1945), do các đệ tử của thự Thanh Bình hưng công góp của, chứng tỏ rằng nghề hát Bội (tuồng) ở Huế vẫn tiếp tục được duy trì khá tốt vào nửa cuối thể kỷ XX.
Tóm lại, bằng việc giới thiệu nội dung hai văn bia trên, chúng tôi mong muốn cung cấp thêm một nguồn tư liệu căn bản về từ đường Thanh Bình, nhằm cùng các di vật liên quan ở nơi đây (như các hoành phi câu đối, sắc phong, ảnh tượng, linh vị, tờ lưu chiểu…) góp phần làm rõ hơn một số giá trị độc đáo hiện tồn ở ngôi nhà thờ chư tổ nghề Tuồng cổ.
Huế, 15/11/2018
V.V.Q
(TCSH363/05-2019)
---------------
1. Nội các triều Nguyễn (1993), Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, tập 9 (Viện Sử học dịch), Nxb. Thuận Hóa, tr. 221.
2. Vũ dật 舞佾: múa bát dật. Bát dật 八佾 là điệu múa dùng cho Thiên tử nhà Chu, Lễ định của Thiên tử được bắt sáu mươi tư người múa bài bông, tám hàng, mỗi hàng tám người.
3. Y hi 依稀: phảng phất (彷彿), trạng thái không rõ ràng, lúc mờ lúc tỏ.
4. Ngu huyền 虞絃: tiếng đàn cầm 5 dây đời Ngu Thuấn (cũng viết Ngu huyền 虞弦). Tiếng đàn của Ngu Thuấn tượng trưng cho sự thanh bình thịnh trị, lễ nhạc vượng hưng.
5. Thái giao 泰交: tức chỉ đời thịnh trị (thịnh thế 盛世). Chữ này lấy ý từ lời Kinh ở quẻ Thái 泰卦 của Kinh Dịch 易經: “Tượng viết: Thiên địa giao, THÁI” 象曰: 天地交,泰 (Lời Tượng nói rằng: Trời đất GIAO hòa là quẻ THÁI).
6. Cung thương 宮商: hai âm trong 5 âm của nhạc lý cổ, gồm cung 宮, thương 商, giốc 角, chủy 徵, vũ 羽.
7. Hòa canh 和賡: dùng thơ ca để tặng đáp, cũng viết là canh hòa 賡和. Chữ này cũng tương đương với canh ca 賡歌 (hát nối, họa đáp lại thơ ca), canh xướng 賡唱(xướng họa lại thơ ca).
8. Điên bá 顛播: lay động không ngừng (diêu động bất định 搖動不定). Sách Tam quốc diễn nghĩa 三 國演義, hồi thứ 47 có đoạn: “Bắc binh bất quán thừa chu, thụ thử điên bá, tiện sinh tật bệnh” 「北兵 不慣乘舟,受此顛播,便生疾病」(quân phương Bắc chẳng quen đi thuyền, bị thuyền lay động không ngừng, khiến sinh ra bệnh tật).
HÀ MINH ĐỨC Ký Sau chặng đường dài, vượt qua nhiều đồi núi của vùng Quảng Bình, Quảng Trị, khoảng 3 giờ chiều ngày 25/9/2003, đoàn chúng tôi về đến thành phố Huế. Xe chạy dọc bờ sông Hương và rẽ vào khu vực trường Đại học Sư phạm Huế. Anh Hồ Thế Hà, Phó Chủ nhiệm khoa Văn; chị Trần Huyền Sâm, giảng viên bộ môn Lý luận văn học cùng với các em sinh viên ra đón chúng tôi. Nữ sinh mặc áo dài trắng và tặng các thầy những bó hoa đẹp.
BĂNG SƠN Tuỳ bútDòng sông Hồng Hà Nội là nguồn sữa phù sa và là con đường cho tre nứa cùng lâm sản từ ngược về xuôi. Dòng sông Cấm Hải Phòng là sông cần lao lam lũ, hối hả nhịp tầu bè. Dòng sông Sài Gòn của thành phố Hồ Chí Minh là váng dầu ngũ sắc, là bóng cần cẩu nặng nề, là những chuyến vào ra tấp nập... Có lẽ chỉ có một dòng sông thơ và mộng, sông nghệ thuật và thi ca, sông cho thuyền bềnh bồng dào dạt, sông của trăng và gió, của hương thơm loài cỏ thạch xương bồ làm mê mệt khách trăm phương, đó là sông Hương xứ Huế, là dòng Hương Giang đất cố đô mấy trăm năm, nhưng tuổi sông thì không ai đếm được.
PHAN THUẬN THẢO Chiều chiều trước bến Vân Lâu Ai ngồi, ai câu, ai sầu, ai thảm, Ai thương, ai cảm, ai nhớ, ai trông. Thuyền ai thấp thoáng bên sông, Đưa câu Mái đẩy chạnh lòng nước non. (Ưng Bình Thúc Giạ)
LÃNG HIỂN XUÂNChẳng hiểu sao, từ thuở còn thơ ấu, tôi đã có một cảm nhận thật mơ hồ nhưng cũng thật xác tín rằng: Chùa chính là nơi trú ngụ của những ông Bụt hay bà Tiên và khi nào gặp khó khăn hay đau khổ ta cứ đến đó thì thế nào cũng sẽ được giải toả hay cứu giúp!
BÙI MINH ĐỨCNói đến trang phục của các Cụ chúng ta ngày xưa là phải nhắc đến cái búi tó và cái khăn vấn bất di bất dịch trên đầu các Cụ. Các Cụ thường để tóc dài và vấn tóc thành một lọn nhỏ sau ót trông như cái củ kiệu nên đã được dân chúng đương thời gọi là “búi tó củ kiệu”. Ngoài cái áo lương dài, cái dù đen và đôi guốc gỗ, mỗi khi ra đường là các Cụ lại bối tóc hình củ kiệu và vấn dải khăn quanh trên đầu, một trang phục mà các cụ cho là đứng đắn nghiêm trang của một người đàn ông biết tôn trọng lễ nghĩa. Trang phục đó là hình ảnh đặc trưng của người đàn ông xứ ta mãi cho đến đầu thế kỷ thứ 20 mới bắt đầu có nhiều biến cải sâu đậm
MAO THUỶ THANH (*)Tiếng hát và du thuyền trên sông Hương là nét đẹp kỳ thú của xứ Huế. Trên sông Hương có hai chiếc cầu bắc ngang: cầu Phú Xuân và cầu Trường Tiền nhưng trước đây người dân Huế thường có thói quen đi đò ngang. Bến đò ở dưới gốc cây bồ đề cổ thụ, nằm đối diện với trường Đại học Sư phạm Huế. Một hôm, tôi và nữ giáo sư Trung Quốc thử ngồi đò sang ngang một chuyến. Trên đò đã có mấy người; thấy chúng tôi bước xuống cô lái đò áp đò sát bến, mời chúng tôi lên đò.
VÕ NGỌC LANBuổi chiều, ngồi trên bến đò Quảng Lợi chờ đò qua phá Tam Giang, tôi nghe trong hư vô chiều bao lời ru của gió. Lâu lắm rồi, tôi mới lại được chờ đò. Khác chăng, trong cảm nhận tôi lại thấy bờ cát bên kia phá giờ như có vẻ gần hơn, rõ ràng hơn.
HỒNG NHUTôi vẫn trộm nghĩ rằng: Tạo hóa sinh ra mọi thứ: đất, nước, cây cỏ chim muông... và con người. Con người có sau tất cả những thứ trên. Vì vậy cỏ cây, đất nước... là tiền bối của con người. Con người ngoài thờ kính tổ tiên ông bà cha mẹ, những anh hùng liệt sĩ đã mất... còn thờ kính Thần Đất, Thần Nước, Thần Đá, Thần Cây...là phải đạo làm người lắm, là không có gì mê tín cả, cho dù là con người hiện đại, con người theo chủ nghĩa vô thần đi nữa! Chừng nào trên trái đất còn con người, chừng đó còn có các vị thần. Các vị vô hình nhưng không vô ảnh và cái chắc là không vô tâm. Vì sao vậy? Vì các vị sống trong tâm linh của con người, mà con người thì rõ ràng không ai lại tự nhận mình là vô tâm cả.
MẠNH HÀTôi không sinh ra ở Huế nhưng đã có đôi lần đến Huế, khác với Hà Nội hay Thành phố Hồ Chí Minh, Huế có nét trầm lắng, nhẹ nhàng, mỗi lần khi đến Huế tôi thường đi dạo trên cầu Trường Tiền, ngắm dòng Hương Giang về đêm, nghe tiếng ca Huế văng vẳng trên những chiếc thuyền rồng du lịch thật ấn tượng. Cho đến nay đã có biết bao bài thơ, bài hát viết về Huế thật lạ kỳ càng nghe càng ngấm và càng say: Huế đẹp, Huế thơ luôn mời gọi du khách.
VÕ NGỌC LANNgười ta thường nói nhiều về phố cổ Hội An, ít ai biết rằng ở Huế cũng có một khu phố cổ, ngày xưa thương là một thương cảng sầm uất của kinh kỳ. Đó là phố cổ Bao Vinh. Khu phố này cách kinh thành Huế chừng vài ba cây số, nằm bên con sông chảy ra biển Thuận An. Đây là nơi ghe, thuyền trong Nam, ngoài Bắc thường tụ hội lại, từ cửa Thuận An lên, chở theo đủ thứ hàng hoá biến Bao Vinh thành một thương cảng sầm uất vì bạn hàng khắp các chợ trong tỉnh Thừa Thiên đều tập trung về đây mua bán rộn ràng.
NGUYỄN XUÂN HOATrước khi quần thể di tích cố đô Huế được công nhận là di sản văn hoá thế giới, thành phố Huế đã được nhiều người nhìn nhận là một mẫu mực về kiến trúc cảnh quan của Việt Nam, và cao hơn nữa - là “một kiệt tác bài thơ kiến trúc đô thị” như nhận định của ông Amadou Mahtar M”Bow - nguyên Tổng Giám đốc UNESCO trong lời kêu gọi tháng 11-1981.
DƯƠNG PHƯỚC THU Bút kýXứ Thuận Hóa nhìn xa ngoài hai ngàn năm trước, khi người Việt cổ từ đất Tổ Phong Châu tiến xuống phía Nam, hay cận lại gần hơn bảy trăm năm kể từ ngày vua Trần Anh Tông cho em gái là Huyền Trân Công chúa sang xứ Chàm làm dâu; cái buổi đầu ở cương vực Ô Châu ác địa này, người Việt dốc sức tận lực khai sông mở núi, đào giếng cày ruộng, trồng lúa tạo vườn, dựng nhà xây đình, cắm cây nêu trấn trị hung khí rồi thành lập làng xã.
TRƯƠNG THỊ CÚCSông Hương, một dòng sông đẹp, sôi nổi với những ghềnh thác đầu nguồn, mềm mại quàng lấy thành phố như một dải lụa, hài hoà tuyệt diệu với thiên nhiên xinh đẹp và hệ thống thành quách, cung điện, lăng tẩm, đền chùa; với hàng trăm điệu hò, điệu lý; với những ngày hội vật, hội đua trải, đua ghe; với mảnh vườn và con người xứ Huế, là nguồn cảm hứng vô tận của người nghệ sĩ, thu hút sự say mê của nhiều khách phương xa. Không những là một dòng sông lịch sử, sông Hương còn là không gian văn hoá làm nẩy sinh những loại hình nghệ thuật, những hội hè đình đám, là không gian của thi ca, nhạc hoạ, là dòng chảy để văn hoá Huế luân lưu không ngừng.
TÔN NỮ KHÁNH TRANG Khi bàn về văn hoá ẩm thực, người ta thường chú trọng đến ẩm thực cung đình, hay dân gian, và chủ yếu đề cập đến sinh hoạt, vai trò, địa vị xã hội... hơn là nghĩ đến hệ ẩm thực liên quan đến đời sống lễ nghi.
TRƯƠNG THỊ CÚC• Bắt nguồn từ những khe suối róc rách ở vùng núi đại ngàn A Lưới - Nam Đông giữa Trường Sơn hùng vỹ, ba nhánh sông Tả Trạch, Hữu Trạch và nguồn Bồ đã lần lượt hợp lưu tạo thành hệ thống sông Hương, chảy miên man từ vùng núi trung bình ở phía đông nam A Lưới, nam Nam Đông, băng qua những dãy núi đồi chập chùng ở Hương Thuỷ, Hương Trà, Phong Điền rồi xuôi về đồng bằng duyên hải, chảy vào phá Tam Giang để đổ nước ra biển Đông.
NGUYỄN KHẮC MAIỞ xứ Huế có những tên làng quê mà nghĩa của chúng vẫn còn là sự ám ảnh kiếm tìm giải thích, chắc chắn chúng phải có nghĩa cụ thể nào đó. Người xưa không bao giờ đặt tên một vùng đất mà chẳng có nghĩa gì cả cứ như là người Mã Lai họ đặt tên vùng đất kinh đô cũng lần ra cái nghĩa đó là “cửa sông bùn lầy” (Kua-la-lăm-pua). Những cái tên như Kim Long, An Hoà, Dương Xuân, Phú Tài, Phú Mậu thì những ai có chút hiểu biết chữ Hán đều có thể lần tìm ý nghĩa. Nhưng có những cái tên làng quê thật khó đoán được cái nghĩa của chúng.
BÙI MINH ĐỨC Ngày nay, hễ nói đến đường để nấu chè là ai ai ở Huế cũng nghĩ đến đường cát trắng, đến thứ đường bột trắng tinh đã được tinh lọc do các nhà máy đường tân tiến sản xuất. Có người cũng còn nhớ đến đường phèn để chưng với chanh ăn khi bị ho, hoặc đường tinh thể là thứ đường đặc biệt màu vàng dùng để uống với cà phê cho thêm phần đậm đà. Nhưng chẳng ai có thể nhắc đến chiếc bánh đường đen ở Huế của thuở nào.
NGUYỄN TIẾN VỞNKinh Dịch (Chu Dịch) là sách về sự biến đổi. Dịch, nói gọn lại là biến đổi. Tinh thần xuyên suốt của Kinh Dịch là quy luật chuyển dời, biến hoá của vạn vật trong cõi trời đất. Mọi vật, bất kể to lớn như vũ trụ, hay nhỏ nhoi như các nguyên tử, đều không bao giờ đứng yên. Mọi sự, từ chuyện người có thể biết đến chuyện chỉ trời đất biết, cũng vận động biến hoá khôn lường.
PHAN THUẬN AN Dạ thưa xứ Huế bây giờ,Vẫn còn núi Ngự bên bờ sông Hương. (Bùi Giáng)
NGUYỄN VĂN THỊNHCũng như trên cả nước, trước cách mạng tháng Tám, làng (tên gọi chữ Hán là xã), ở Thừa Thiên Huế là một đơn vị cơ bản trong tổ chức hành chính của các vương triều.