VÕ VINH QUANG
Thanh Bình từ đường, thờ tổ nghề hát bội của triều Nguyễn, tọa lạc ở kiệt 281 đường Chi Lăng, thành phố Huế là một địa điểm quan trọng trong truyền thống văn hóa nghệ thuật của đất Cố đô.
Thanh Bình từ đường - Ảnh: internet
Từ đường Thanh Bình thuở đầu triều Nguyễn được lập nên để vừa là nơi thờ cúng các vị tiên hiền nghề Tuồng cổ, và cũng là nơi tập hợp những quan viên của Thanh Bình thự (sảnh công Thanh Bình - đội Nhã nhạc triều Nguyễn) sinh hoạt và cư ngụ.
Nói về lai lịch Thanh Bình thự, sách Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, quyển 143: Doanh hiệu quân ở Kinh, mục “thư Thanh Bình” cho biết: “Gia Long năm đầu, mộ lập đội Việt Tường, để sung vào hầu trực ca múa. [Gia Long] năm thứ 5, nghị chuẩn: Đội Việt Tường, liệt vào hạng tòng tinh binh. Minh Mạng năm thứ 7, trích lấy biền binh ở vệ Vũ Thành 44 tên sung bổ vào đội Việt Tường. [Minh Mạng] năm thứ 9, đổi đội Việt Tường làm thự Thanh Bình. Những con cái ca kỹ ở các hạt Quảng Nam, Quảng Nghĩa [Ngãi], Bình Định, Phú An [Yên] cũng cho lệ thuộc thự ấy…”1.
Lịch sử hình thành và trùng tu ở thế kỷ XIX, XX của Thanh Bình từ đường được biên thuật trong hai văn bia hiện đặt ở khuôn viên từ đường ấy. Hiện nay (tháng 11 năm 2018), từ đường đang được tiến hành trùng tu, sửa chữa và nâng cấp. Nhận thấy việc tìm hiểu quá trình tồn tại và biến đổi của Thanh Bình từ đường không thể không nắm rõ nội dung hai văn bia này, vậy nên chúng tôi xin được giới thiệu, dịch thuật và bước đầu khái lược về giá trị của các văn bia liên quan nói trên.
Hai văn bia hiện đặt ở hai phía (nhìn từ ngoài vào) trái, phải trước mặt từ đường Thanh Bình. Bên phải là tấm bia dựng năm Minh Mạng thứ 5 (1824) và bên trái là tấm bia dựng năm Mậu Tuất (1958). Hai bia có kích cỡ tương đương nhau, gồm: bia cao 110cm, rộng 62cm, trán bia dật góc và cao 62cm, diềm bia rộng 8cm. Về mỹ thuật trang trí, bia đá năm 1824 được tạo tác bằng hoa lá lượn sóng cách điệu; phía trán bia trang trí bằng đôi chim phượng chầu mặt trời. Phần dưới chân bia tạo hình bằng hoa lá cách điệu uốn lượn trên sóng. Bia đá năm 1958 là bia trơn, không trang trí. Dưới đây là bản dịch.
1. Văn bia năm Minh Mạng thứ 5 (1824)
Hán văn:
![]() |
Phiên âm:
Minh Mệnh ngũ niên tứ nguyệt cát nhật tạo bi, ư Quý Mùi niên tam nguyệt sơ cửu nhật trùng tạo từ đường bi văn. Trường trung xuân thự, nghiễm nhiên vũ dật 2 uy nghi; Đường thượng vân khai, hòa chỉ thanh âm liệu lượng. Lịch số cổ kim lạc sự; Tẫn vi thiên hạ kì quan. Đường hoàng nhã điệu sạ khai, vận tuyên kim thạch; Cổ xúy hòa âm sơ thính, hưởng triệt vân tiêu. Tranh công đoạt diễm, quyết thái kham khoa. Ngoạn hí thưởng tâm bất nhất; nhi túc quân tể thiên thu. Tưởng tượng hoảng nhược diện tiền, anh hào vạn cổ; Y hi 3 nhan đồng mục hạ, mai tự lịch triều. Hữu tác tư đào, thanh nhạc điệt hứng. Giải dân uấn vu Ngu huyền 4, khánh vân trùng đổ; Truy thái giao 5 vu Chu yến, trạm lộ tái ca. Thẩn thời kiến: Khái thóa cung thương 6, bộ xu đạc luật. Điện đình bái vũ, chiêu gia mỹ chi quốc tường; Lang miếu hòa canh 7, bái uông dương chi đế trạch. Hạnh kim: Từ đường trùng tạo, trở đậu nhất tân. Kiêm hạt quan đa, lại đức công vô vong bội phục; Tân bi tạo vĩnh, lưu trần tích điên bá 8 canh ca.
Việt Tường đội Phân suất Cai quan Quang Đức bá Trương Văn Hiền, Ty quan Nghi Đức tử Nguyễn Văn Nhân, Viên chức Tống Phước Lân, Nguyễn Văn Uyên, Hoàng Văn Viết, Nguyễn Văn Phượng, Nguyễn Văn Nghiễm, Mai Văn Thống, Nguyễn Văn Thọ, Nguyễn Bá Phú, Lê Công Huy, Nguyễn Văn Của, Nguyễn Văn Hiếu, Nguyễn Văn Nương, Tống Phước Cải, Nguyễn Văn Phái, Lê Phúc Trạch, bổn đội đồng kiến lập.
Dịch nghĩa:
Ngày lành tháng 04 năm Minh Mệnh thứ 5 (1824) tạo dựng bia đá, [đây là] văn bia trùng tạo từ đường [hoàn thành] vào ngày 09 tháng 03 năm Quý Mùi (1823).
Trong sân xuân rạng, uy nghi múa dật chỉnh nghiêm; Trước điện mây bày, trong trẻo thanh âm hòa điệu. Trải khắp xưa nay hoan hỉ, tận cùng thiên hạ kỳ quan. Đường hoàng nhã nhạc chợt vang, lời xuyên vàng đá; Kèn trống hòa âm vừa vọng, tiếng thấu trời mây. Khéo tranh diễm lệ, quyết giữ khoa trương. Vờn giỡn, hân hoan muôn một; Vẹn tròn nghiệp đế thiên thu. Trước mặt tưởng tượng tựa hồ, anh hùng vạn cổ; Dưới mắt tỏ mờ tranh biện, quân ngựa lịch triều. Tạo tác kép đào, nhạc vang khởi hứng. Dân hết giận bởi Ngu cầm, mây lành cùng tỏ; Nước thái hòa nơi Chuyến, mưa móc lại ca.
Cũng thấy đây: Thổi tiếng cung thương, bước cùng âm luật. Điện đình lạy múa, tỏ điềm nước thịnh rạng ngời; Tông miếu nối lời, rưới ân vua tươi lênh láng.
May nay: Từ đường trùng tạo, lễ khí mới tươi. Quan quản lo nhiều, cậy đức công không quên khâm phục; Dựng bia còn mãi, lưu dấu cũ lay động hòa ca.
Đội Việt Tường [gồm]: Phân suất Cai quan là Trương Văn Hiền, tước Quang Đức bá; Ty quan là Nguyễn Văn Nhân, tước Nghi Đức tử; Viên chức là Tống Phước Lân, Nguyễn Văn Uyên, Hoàng Văn Viết, Nguyễn Văn Phương, Nguyễn Văn Nghiễm, Mai văn Thống, Nguyễn Văn Thọ, Nguyễn Bá Phú, Lê Công Huy, Nguyễn Văn Của, Nguyễn Văn Hiếu, Nguyễn Văn Nương, Tống Phước Cải, Nguyễn Văn Phái, Lê Phước Trạch cùng quan viên bổn đội đồng tạo lập.
2. Văn bia năm Mậu Tuất (Việt Nam Cộng Hòa, 1958)
Hán văn:
越南共和戊戌年八月二十日,清平弟子等竊念: 酬恩報德, 改設重修, 奉事祖業賢哲 偉人陶成教化, 並諸前輩普及同業男女過故先靈永留後世, 以表功勳。所有謹受其人, 案分其事,以壯觀瞻,列計于左。計
督工黃玉璣,書記阮文坡,財政阮仲謹,弟子仝造立.
![]() |
Phiên âm:
Việt Nam Cộng Hòa Mậu Tuất niên bát nguyệt nhị thập nhật, Thanh Bình đệ tử đẳng thiết niệm: Thù ân báo đức, cải thiết trùng tu, phụng sự tổ nghiệp, hiền triết vĩ nhân, đào thành giáo hóa, tịnh chư tiền bối phổ cập đồng nghiệp nam nữ quá cố tiên linh, vĩnh lưu hậu thế, dĩ biểu công huân. Sở hữu cẩn thụ kì nhân, án phân kì sự, dĩ tráng quan chiêm, liệt kê vu tả. Kê: Đốc công Hoàng Ngọc Cơ; Thư kí Nguyễn Văn Pha, Tài chánh Nguyễn Trọng Cẩn, đệ tử đồng tạo lập.
Dịch nghĩa:
Việt Nam Cộng Hòa, ngày 20 tháng 08 năm Mậu Tuất (1958), các đệ tử của Thanh Bình [từ đường] trộm nghĩ: [nhằm] trả ơn báo đức, [các đệ tử] thiết đặt trùng tu từ đường, để phụng thờ tổ nghiệp, cùng các hiền triết, vĩ nhân đã giáo hóa cho nghiệp đào hát (hát bội), và các tiền bối khắp nơi, đồng nghiệp nam nữ, tiên linh đã khuất, để mãi truyền lưu hậu thế, tỏ ngời nghiệp lớn công cao. [Ghi chép] hết thảy người nào đã kính trao nhận, những việc khảo phân, để xem xét đầy đủ rõ ràng, liệt kê dưới đây. Kê:
Đốc công là Hoàng Ngọc Cơ, Thư ký Nguyễn Văn Pha, Tài chính Nguyễn Trọng Cẩn cùng các đệ tử đồng tạo lập.
3. Sơ lược nhận định về giá trị của hai văn bia từ đường Thanh Bình
Qua nội dung hai văn bia ở từ đường Thanh Bình, đối chiếu với những ghi chép về thự Thanh Bình trong Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, ta thấy thự Thanh Bình vốn tên là đội Việt Tường, một đơn vị Nhã nhạc (cùng đơn vị thự Hòa Thanh) thuộc bộ Binh của Kinh sư, được thành lập vào năm đầu niên hiệu Gia Long (1802). Có lẽ từ đường vốn đã được lập từ những năm đầu triều Nguyễn, và đến 22 năm sau, tức ngày 09 tháng 03 năm Minh Mạng thứ 4 (1823), từ đường Thanh Bình được chính thức hoàn thành việc trùng tạo; rồi cho khắc bi văn vào tháng 4 năm 1824 nhằm di lưu dấu tích. Bốn năm sau, vào năm Minh Mạng thứ 9 (1828), đội Việt Tường được đổi làm thự Thanh Bình. Đấy cũng chính là tên gọi chính thức của ngôi từ đường thờ tổ ngành Hát Bội triều Nguyễn cho đến hôm nay.
![]() |
Trong hai văn bia ở từ đường, chúng tôi thấy văn bia năm Minh Mạng thứ 5 (1824) không chỉ có giá trị “khắc ghi” lịch sử tạo dựng từ đường, mà giá trị văn chương của văn bia này cũng rất đáng quan tâm tìm hiểu. Văn bia được viết theo thể tứ lục, biền ngẫu đầy tính nhạc, âm điệu nhịp nhàng, ngôn từ uyển chuyển, với nội dung ca ngợi, tự hào với nền thái hòa thịnh trị của vương triều cùng đất nước. Chẳng hạn như các đoạn: “Trường trung xuân thự, nghiễm nhiên vũ dật uy nghi/ Đường thượng vân khai, hòa chỉ thanh âm liệu lượng” 場中春曙,儼然舞佾威儀; 堂上雲開, 和止聲音嘹喨 (Trong sân xuân rạng, uy nghi múa dật chỉnh nghiêm; Trước điện mây bày, trong trẻo thanh âm hòa điệu); hay như cặp câu chuẩn đối “Điện đình bái vũ, chiêu gia mỹ chi quốc tường/ Lang miếu hòa canh, bái uông dương chi đế trạch” 殿庭拜舞,昭嘉美之國祥; 廊廟和賡; 沛汪洋之帝澤 (Điện đình lạy múa, tỏ điềm nước đẹp rạng ngời; Tông miếu nối lời, rưới ân vua tràn lênh láng)… Có thể nói tính đăng đối chuẩn mực tạo nên giai điệu trầm bổng, luyến láy, khiến độc giả tưởng chừng như bắt gặp những ca từ du dương, uyển chuyển đầy hào sảng ở văn bia này. Đấy có thể xem là điểm nhấn quan trọng trong quá trình tìm hiểu về các di vật ở nhà thờ tổ nghề Hát Bội nơi đây.
Đối với văn bia năm Mậu Tuất (1958), mặc dù nội dung ngắn gọn song cũng giúp ích cho độc giả và những người quan tâm thêm phần hiểu rõ quá trình trùng tu từ đường sau tầm 150 năm tồn tại (khoảng 1802 - 1958). Đợt trùng tu này (1958) diễn ra một thời gian sau khi triều Nguyễn cáo chung (1945), do các đệ tử của thự Thanh Bình hưng công góp của, chứng tỏ rằng nghề hát Bội (tuồng) ở Huế vẫn tiếp tục được duy trì khá tốt vào nửa cuối thể kỷ XX.
Tóm lại, bằng việc giới thiệu nội dung hai văn bia trên, chúng tôi mong muốn cung cấp thêm một nguồn tư liệu căn bản về từ đường Thanh Bình, nhằm cùng các di vật liên quan ở nơi đây (như các hoành phi câu đối, sắc phong, ảnh tượng, linh vị, tờ lưu chiểu…) góp phần làm rõ hơn một số giá trị độc đáo hiện tồn ở ngôi nhà thờ chư tổ nghề Tuồng cổ.
Huế, 15/11/2018
V.V.Q
(TCSH363/05-2019)
---------------
1. Nội các triều Nguyễn (1993), Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, tập 9 (Viện Sử học dịch), Nxb. Thuận Hóa, tr. 221.
2. Vũ dật 舞佾: múa bát dật. Bát dật 八佾 là điệu múa dùng cho Thiên tử nhà Chu, Lễ định của Thiên tử được bắt sáu mươi tư người múa bài bông, tám hàng, mỗi hàng tám người.
3. Y hi 依稀: phảng phất (彷彿), trạng thái không rõ ràng, lúc mờ lúc tỏ.
4. Ngu huyền 虞絃: tiếng đàn cầm 5 dây đời Ngu Thuấn (cũng viết Ngu huyền 虞弦). Tiếng đàn của Ngu Thuấn tượng trưng cho sự thanh bình thịnh trị, lễ nhạc vượng hưng.
5. Thái giao 泰交: tức chỉ đời thịnh trị (thịnh thế 盛世). Chữ này lấy ý từ lời Kinh ở quẻ Thái 泰卦 của Kinh Dịch 易經: “Tượng viết: Thiên địa giao, THÁI” 象曰: 天地交,泰 (Lời Tượng nói rằng: Trời đất GIAO hòa là quẻ THÁI).
6. Cung thương 宮商: hai âm trong 5 âm của nhạc lý cổ, gồm cung 宮, thương 商, giốc 角, chủy 徵, vũ 羽.
7. Hòa canh 和賡: dùng thơ ca để tặng đáp, cũng viết là canh hòa 賡和. Chữ này cũng tương đương với canh ca 賡歌 (hát nối, họa đáp lại thơ ca), canh xướng 賡唱(xướng họa lại thơ ca).
8. Điên bá 顛播: lay động không ngừng (diêu động bất định 搖動不定). Sách Tam quốc diễn nghĩa 三 國演義, hồi thứ 47 có đoạn: “Bắc binh bất quán thừa chu, thụ thử điên bá, tiện sinh tật bệnh” 「北兵 不慣乘舟,受此顛播,便生疾病」(quân phương Bắc chẳng quen đi thuyền, bị thuyền lay động không ngừng, khiến sinh ra bệnh tật).
JEAN CLAUDE VÀ COLETTE BERNAY (Chủ tịch Hiệp Hội "Nghệ thuật mới Việt Nam", thành viên của Nhóm công tác Huế - Unesco, phụ trách dự án Duyệt Thị Đường từ năm 1993)
NGUYỄN QUANG HÀ Bút kýMột nhà triết học đã nói: "MỌI NGƯỜI ĐỀU ĐI BẰNG ĐÔI CHÂN CỦA MÌNH". Lúc ăn chưa no, lo chưa tới, đọc câu này, tôi cười: "Dễ ợt thế, có gì mà nói". Lớn lên mới thấy được câu ấy thật chí lý, thật ghê gớm. Hầu như tất cả những ai mượn đôi chân của người khác đi đều sứt đầu, bươu trán cả. Tuy không nói ra, song những tiền đề, định hướng cho mọi hành động đều có xuất phát điểm từ nội dung câu nói ấy.
HOÀNG NGỌC VĨNHTrong hơn 300 năm từ 1636 đến 1945, với tư cách là Trung tâm chính trị và văn hóa của Đàng Trong và là kinh đô của đất nước thống nhất, Huế trải nhiều thăng trầm nhưng vẫn giữ được những thuần phong mỹ tục và các thành tựu của dân tộc, tiếp thu những tinh hoa của nhân loại, hội tụ được nhiều kỳ tích về nhiều phương diện. Huế bình tĩnh, chắc chắn đi lên và đang hiện đại hóa. Cố đô cổ kính hài hòa trong thành phố mới sôi động, xứng đáng với phần thưởng cao quý mà UNESCO trao tặng trong tháng 8. 1994 "Huế di sản văn hóa của thế giới".
XUÂN HUY "Chợ Đông Ba đem ra ngoài giại Cầu Trường Tiền đúc lại xi - moong"
TÔN THẤT BÌNHThừa Thiên Huế vốn là vùng đất miền Trung nổi tiếng về hò. Ngày trước, hò khá phổ biến trên mọi miền đất nước, nhưng đặc biệt ở miền Trung, hò là một đóng góp quan trọng về thể loại dân ca Việt Nam.
LTS: Nhạc sĩ Trần Hoàn là người từng công tác nhiều năm, và có nhiều gắn bó với TTH. Nhân dịp ông vào Huế công tác, phóng viên Nguyễn Việt có cuộc trò chuyện với ông xung quanh những vấn đề về Huế và âm nhạc. Xin giới thiệu với bạn đọc nội dung cuộc trò chuyện này.
HỒ VĨNHTừ đường Qui Đức công chúa tọa lạc bên cạnh đường đi lăng Tự Đức thuộc thôn Thượng 2, xã Thủy Xuân, thành phố Huế. Đây là một ngôi từ đường cổ có tuổi thọ trên 100 năm. Bình đồ từ đường có kiến trúc gần vuông, nội thất có 1 gian 2 mái gồm 20 cột gỗ lim, kiền. Ở gian chính giữa treo bức hoành khắc nổi sáu chữ Hán "Qui Đức công chúa từ đường".
NGUYỄN KHẮC PHÊLâu nay, nhắc đến vùng biển gắn liền với Huế, người ta chỉ biết có Thuận An " bãi tắm Thuận An", " Cảng Thuận An", " nhà nghỉ Thuận An"... còn eo Hòa Duân, nghe như là một địa danh mới nổi tiếng sau cơn lũ lịch sử đầu tháng 11 này.
THANH TÙNGSáng 4/11/99, khi còn kẹt ở Đà Nẵng, nối được liên lạc với với Chủ tịch UBND tỉnh Thừa Thiên - Huế Nguyễn Văn Mễ qua Mobi Fone tôi mới biết mức nước ở Huế đã vượt đỉnh lũ lịch sử từ 1 - 1,2 mét.
QUÍ HOÀNGLăng tẩm trừ lăng Khải Định, Hổ Quyền, trong Hoàng Thành trừ Thái Bình Lâu, Lẩu Ngọ Môn ở vị thế cao nên thoát khỏi nước. Còn tất cả 14 khu di tích khác với hàng trăm công trình kiến trúc đều bị ngập trong biển nước. Chỗ cao nhất trong nội thành cũng ngập 1 mét 50 nước, chỗ ngập sâu nhất của lăng Minh Mạng là trên 5 mét. Nhà bia ở đây nước ngập dần tới mái.
ĐOÀN MINH TUẤNViệt Nam - mảnh đất dài như một chiếc đàn bầu đã là quê hương sản sinh ra chiếc áo dài phụ nữ duyên dáng. Dải đất hình chữ S thắt lưng eo ở Huế, cũng như chiếc áo dài "thắt đáy lưng ong" dịu dàng, e ấp, kín đáo và lộ rõ đường nét: Rõ ràng trong ngọc trắng ngà Dày dày sẵn đúc một tòa thiên nhiên (Nguyễn Du)
NGUYỄN ĐẮC XUÂNTừ sau ngày các chúa Nguyễn thiên di thủ phủ xứ Đảng Trong đến Kim Long (1636) và Phú Xuân (1687), do yêu cầu tiêu dùng của phủ Chúa và quan binh, đã hình thành ở Phố Lữ Bao Vinh một khu phố thị. Đến nửa thế kỷ XIX khu phố thị nầy lan dần lên phía chợ Dinh Gia Hội và tồn tại cho đến ngày nay. Kinh thành Huế được UNESCO công nhận là Thành cổ thì khu Gia Hội Chợ Dinh chính là khu phố cổ của Huế.
VÕ HƯƠNG AN (*)Ngày trước tôi chưa thấy nơi nào nhiều am, miếu, điện, đền như ở Huế. Và cũng chưa thấy nơi nào mà việc lên đồng lại phổ biến và quen thuộc như ở Huế. Nội dọc con đường chạy từ xóm Cầu Đất tới cống Vĩnh Lợi đã có khá nhiều điểm lên đồng, nào am ông Cửu Cường, am bà Thầy Bụi, Phước Điền Điện của ông Giám Hưu, am ông Chấn.v.v nói chi đến những nơi khác nữa.
NGUYỄN VĂN MẠNHLàng Phước Tích được thành lập vào khoảng thế kỷ XV, gần với quá trình mở mang bờ cõi về phương Nam của nhà nước phong kiến Đại Việt. Trong gia phả của họ Hoàng - dòng họ khai canh ở Phước Tích có đoạn chép: "Đến đời Lê Thánh Tôn, niên hiệu Hồng Đức thứ nhất và hai (1470 - 1471), ngài thủy tổ họ Hoàng lúc bấy giờ là Hoàng Minh Hùng, tục gọi là Nồi, nguyên người làng Cẩm Quyết, tỉnh Nghệ An, đã thân chinh đánh đuổi quân Chiêm Thành, sau chiến thắng trở về ngài đi xem xét đến nguồn Ô Lâu, bao chiến địa phận từ Khe Trăn, Khe Trái đến xứ Cồn Dương, sau khi xem bói, đoán biết được chỗ đất tươi tốt, ngài liền chiêu tập nhân dân thành lập làng" (1).
NGUYỄN QUANG SÁNG Ký Mỗi lần ra Huế về tôi cứ áy náy là chưa đến viếng Nhà thờ tổ nghề Kim Hoàn, vì cha tôi và anh em tôi đều là thợ kim hoàn. Nghề kim hoàn của cha tôi đã nuôi các anh chị em tôi. Cũng với nghề kim hoàn gia đình tôi đã trải qua biết bao thăng trầm. Mãi đến ngày 05/8/2004 này nhờ sự giúp đỡ của Tạp chí Sông Hương (Nguyễn Khắc Thạch, Vũ Bích Đào, Diệu Trang) tôi đã đến Nhà thờ thuộc làng Kế Môn, huyện Phong Điền.
TRẦN THỊ THANH…Núi Thuý Vân và chùa Thánh Duyên vì trước kia được xem là một trong những thắng cảnh của đất Thần Kinh nên các Chúa và các vua Nguyễn thường về đây thưởng ngoạn và làm thơ phú ca ngợi. Tuy nhiên, nổi tiếng hơn cả vẫn là những bài thơ được khắc trong hai tấm bia - một dựng trong chùa, một dựng dưới chân núi…
HỒ VĨNHĐồi Vọng Cảnh nằm cách thành phố Huế 7km về phía tây nam, vùng sơn phận này gồm nhiều núi đồi gối đầu lên nhau trong một khu vực rộng khoảng 2.400 ha diện tích đất tự nhiên. Về mặt địa hình của ngọn đồi, từ vị trí của tấm bia cổ Lý Khiêm Sơn (núi gối hậu của Khiêm Lăng - Tự Đức) kéo dài lên Vọng Cảnh là một dãy liên hoàn.
NGUYỄN QUANG HÀChùa Huyền Không Sơn Thượng tan trong non xanh và lá xanh. Dẫu đang còn tranh tre mộc mạc, nhưng thanh thoát, duyên dáng và thảnh thơi như lòng người ở đây. Đúng như nhà sư Minh Đức Triều Tâm Ảnh tâm sự: “Cảnh là tơ duyên của đời”. Đến Huyền Không Sơn Thượng cảm giác đầu tiên của tất cả du khách là thấy lòng mình ấm lại.
MINH ĐỨC TRIỀU TÂM ẢNHChùa Linh Mụ đẹp quá, nên thơ quá. Nói vậy cũng chưa đủ. Nó tịnh định, cổ kính, an nhiên, trầm mặc. Nói vậy cũng chưa đủ. Phải nói nó là một bài thơ Thiền lồng lộng giữa không gian mây nước, giữa khói sương, giữa mênh mang dâu bể và lòng người. Nó là bức tranh thủy mặc thuộc họa phái Sumiye, Nhật Bổn, mà, nét chấm phá tuy giản phác nhưng lung linh, ảo diệu; vượt thời gian và đi vào vĩnh cửu. Nó là bài kinh vô ngôn, tuy không nói một chữ, mà đã làm lắng đọng trăm ngàn xôn xao của cuộc thế; và, gợi nhắc vô biên cho con người hướng đến điều chân, lẽ thiện...
NGÔ MINHHuế trên 350 năm là thủ phủ Chúa Nguyễn Đằng Trong và Kinh Đô của Đại Việt đã tích tụ nhân tài, vật lực cả quốc gia tạo ra một hệ thống Di sản văn hóa phi vật thể đặc sắc và nổi tiếng như nhã nhạc, lễ hội dân gian, văn hóa ẩm thực... Trong Di sản văn hóa ẩm thực Huế, Văn hóa ẩm thực Cung đình là bộ phận tinh hoa nhất, giá trị nhất!