Về bốn chữ "mê tín dị đoan"

14:21 31/03/2010
ĐÀO THÁI TÔNTrong bài Mê tín dị đoan trên chuyên mục Tiếng nói nhà văn (Văn Nghệ số 52 (2032), ngày 26 - 12 - 1988), nhà văn Thạch Quỳ thấy cần phải "phân định cho được văn hóa tâm linh, văn hóa nhân bản, văn hóa tín ngưỡng để phân biệt nó với mê tín dị đoan".

Nhà nghiên cứu Đào Thái Tôn - Ảnh: vietnamnet.vn

Tác giả còn đưa ra cụm từ "ý tưởng chiêm nghiệm tâm linh" mà theo anh, ý tưởng này đã "đặt được các vấn đề bí ẩn để soi đường cho khoa học nghiên cứu. Phủ nhận ý tưởng tâm linh là phủ nhận khát vọng khám phá bí ẩn mà bất kỳ ở thời nào thì loài người vẫn còn những vấn đề chưa nhận thức hết". Vậy là, cụm từ ý tưởng tâm linh, ý tưởng chiêm nghiệm tâm linh văn hóa tâm linh, hóa ra là một? Vì khuôn khổ bài viết, tôi sẽ không bàn về những thuật ngữ, cụm từ này mà chỉ xin đáp lời đề nghị của nhà văn Thạch Quỳ: "Tôi đề nghị các nhà văn nghiên cứu cần định nghĩa cho được bốn từ "mê tín dị đoan".

Thực ra thì "mê tín "dị đoan", là hai khái niệm khác nhau, không thể đứng liền.

"Mê tín" là: "Bất biện sự lý chi thị phi nhi võng tín dã - không phân biệt được phải trái của "sự lý" mà cứ tin xằng, tin một cách mê muội - (Từ nguyên, trang 1456).

Còn "dị đoan" có xuất xứ trong thiên Vi chính, sách Luận ngữ. "Tử viết: Công hồ dị đoan tư hại dã dĩ" (Khổng Tử nói: nghiên cứu các "dị đoan" là hại lắm vậy). Nghiên cứu 'dị đoan" là nghiên cứu gì? Nghĩa gốc của "đoan" là đầu mối của cuộn tơ. "Dị đoan" là đầu mối khác. Cuộc đời có lắm việc, sự vật cũng có lắm góc cạnh, cứ bời bời như các đầu tơ mối chỉ, nên người xưa dạy: "Thiên hạ chi lý vô cùng, thiên hạ chi sự diệc vô cùng. Vị khả cứ kỳ sở kiến, chấp nhất đoan luận chi" (Lý trong thiên hạ là vô cùng, sự trong thiên hạ cũng vô cùng. Không thể chỉ bằng vào cái tai nghe mắt thấy, chỉ nắm được một đầu mối của sự lý đã vội phán bừa như "thầy bói xem voi"). Học thuật cũng thế, thời nào cũng có lắm đầu mối, lắm học thuyết. Thời Khổng Tử cũng có lắm học thuyết. Nhưng ông chỉ xem học thuyết của ông mới là "đại trung chí chính". Các học thuyết khác đều bị ông xếp vào "dị đoan" tức là các mối dây khác với mối dây của ông. Nhưng dù thế, học thuyết "phi Nho" vẫn là một thế lực, "phi Thánh nho chi đạo nhi lánh vi nhất đoan" - Chu Hy (tuy không phải "Thánh nho" nhưng các "đạo" đó vẫn tách biệt như một "đoan", tồn tại song song với Khổng Tử mà ông không làm gì được; vì ông chỉ là một "tố vương" - một ông vua không ngai, suốt đời đi hết nước này đến nước khác truyền đạo mà chả mấy ai theo - có khi thấy trò còn suýt chết đói! Câu nói của ông, do vậy, chỉ là lời khuyên môn đệ: "Công hồ dị đoan, tư hại dã dĩ" (Nếu các trò mà cứ bỏ công nghiên cứu các "dị đoan" - ví như học thuyết của Dương Chu, Mặc Định thì nguy hại lắm).

Với nghĩa gốc trong xuất xứ của "dị đoan" như thế, ta thấy nó đã có một nghĩa xác định - là "một chủ thuyết, một trường phái học thuật, một lĩnh vực văn hóa nào đó" không phải "Thánh nho" của Khổng Tử. Theo nghĩa này, những người theo chủ nghĩa duy vật sẽ nhìn văn hóa tâm linh, văn hóa tín ngưỡng là các "dị đoan" so với khoa học - bởi tuy không xuất phát từ cơ sở lý thuyết xác đáng nhưng văn hóa tâm linh vẫn tồn tại từ lâu như một thực tiễn trong đời sống văn hóa xã hội. Tôi đồng ý với nhà văn Thạch Quỳ, các "dị đoan" này đã và sẽ là chất xúc tác "đặt được các vấn đề" để các nhà khoa học đi sâu vào nghiên cứu bí ẩn của giới tự nhiên. Bởi chủ nghĩa duy vật biện chứng đã chỉ ra rằng: trong giới tự nhiên không có những điều không thể biết, chỉ có những điều con người chưa biết được mà thôi. Những điều chưa biết được đó chính là mảnh đất sống của cõi tâm linh, của ước mơtưởng tượng, của thần thoạitrường ca cô, và cũng là mảnh đất để các tôn giáo chân chính từ hàng ngàn năm qua đã xây dựng nên những học thuyết, những trang thơ văn cô đọng bất hủ - trong đó có những vần thơ Thiền trác tuyệt, những câu văn hàm xúc trong Kinh Thánh... như dấu ấn tuổi thơ một đi không trở lại của nhân loại.

Tôn giáo cũng đa dạng. Mỗi: "giáo" chân chính đều có cách hiểu thế giới của mình. Mỗi giáo là một "dị đoan" so với giáo khác. Trong một giáo cũng có lắm "đoan", lắm mối, cũng "đa đoan" như khối óc một con người. Nhưng bất kỳ một tôn giáo học thuyết chân chính nào thì, suy cho cùng đều hướng tới vấn đề nhân bản, đều mong cho xã hội thanh bình hạnh phúc mà ở đó mỗi con người đều được sống vì cái Chân, cái Thiện, cái Mĩ. Hẳn mọi người còn nhớ: vào năm 1946, để trả lời một câu hỏi của phóng viên tại nước ngoài: Thế rút cục thì, xin hỏi ngài, ngài là người quốc gia hay quốc tế? Hồ Chủ Tịch khi đó điềm tĩnh đáp: Tôi là người yêu nước. Khổng Tử có điều vĩ đại là đạo đức tu thân, đức Phật Thích Ca vĩ đại ở lòng vị tha bác ái; chúa Giê su vĩ đại ở chủ trương cứu khổ nạn cho loài người; ông Các Mác vĩ đại vì có phép biện chứng; bác sĩ Tôn Dật Tiên thì có chủ nghĩa Tam dân rất hợp với đất nước chúng tôi. Các ông ấy đều giống nhau ở chỗ cùng mưu cầu hạnh phúc cho loài người. Tôi tin rằng ngày nay nếu các vị ấy sống lại mà gặp nhau thì họ sẽ đối xử với nhau như những người bạn tốt. Tôi nguyện làm người học trò nhỏ của các vị ấy.

Câu chuyện trên đây cho thấy cách nhìn khoa học, dung hợp được các "dị đoan" của Chủ tịch Hồ Chí Minh: Người nhận thấy mỗi "đoan" đều có những nét tinh túy nổi trội cần phải tiếp thu, vận dụng. Vì thế, khi vừa giành được chính quyền, còn biết bao công việc bề bộn mà Người đã rất sớm ra sắc lệnh nghiêm cấm việc phá hủy chùa chiền, nhà thờ và các đình miếu, di tích lịch sư. Trong di sản của Người, còn nhiều bài nói, bài viết mà ở Người luôn xem các tôn giáo khác nhau như những thành viên cần thiết trong Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, đã có công cùng toàn dân thực hiện thắng lợi sự nghiệp kháng chiến kiến quốc. Trung thành với tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, cho tới nay, Nhà nước ta vẫn chủ trương coi trọng các tôn giáo, coi trọng tự do tín ngưỡng của toàn dân. Điều đó được thể hiện nhất quán trong Hiến pháp, trong các Nghị quyết, các bài nói, bài viết của các vị đứng đầu Đảng và Nhà nước ta suốt mấy chục năm qua.

Rõ ràng là, Nhà nước ta từ trước tới nay vẫn nhất quán trong việc tôn trọng các "dị đoan", chỉ chống lại những ai nhân danh "đoan" này "đạo" nọ để hành "nghề" mê tín nhằm mục đích lòe bịp một số người do trình độ văn hóa thấp, để thỏa mãn lòng tham và dục vọng của mình - ví như "pháp sư" này "tiên cô" nọ - mà điển hình là tên lừa bịp trong bài "Gã thầy bói già và bi kịch của hai cô gái" mà báo Tiền phong (8 - 12 - 1998) vừa vạch mặt chỉ tên. Chúng ta chỉ chống lại những người tuy đã ở đạo này đạo khác nhưng vì lý do nào đó, vội bỏ việc đạo xông vào việc đời (mà vốn họ không thông thạo) một cách quá sâu - bất chấp giáo lý Từ bi nơi cửa Phật, không chút sượng sùng trong bộ áo cà sa, nhảy chồm chồm lên nóc xe cảnh sát, hè nhau lật đổ, rồi đốt cháy cả xe!

Từ những điều phân tích trên đây, chúng tôi đề nghị chỉ nên dùng cụm từ "chống mê tín" chứ không thể nói hoặc viết theo thói quen "chống (bài trừ) mê tín dị đoan". Vì "mê tín" là một từ để chỉ một thói xấu. Đối với những người do trình độ văn hóa thấp mà mắc tật mê tín, chúng ta không bài trừ họ mà chỉ giáo dục nhằm dẫn họ ra khỏi cõi mê. Chúng ta chỉ bài trừ những người hành "nghề" mê tín. Có những người hành nghề mê tín chưa đọc thông viết thạo. Thế thì hà cớ gì chúng ta lại xếp họ ngang hàng với các "dị đoan" có giáo lý, lý thuyết - một khi chúng ta gộp hai khái niệm khác nhau một trời một vực vào bốn chữ "mê tín dị đoan" để chống, để bài trừ? Vẫn biết rằng hiện nay các phương tiện thông tin đại chúng còn dùng sai không ít từ Hán Việt. Báo chí nhắc nhở đã nhiều, vẫn chưa sửa được. Nhưng ở trưởng hợp "mê tín dị đoan" này, chúng tôi cho rằng nên tích cực sửa ngay vì nó đụng chạm tới cách hiểu về chủ trương đường lối tự do tín ngưỡng, tự do tư tưởng của Nhà nước ta.

Viết tới đây, tôi thử tìm cái mà do đó hai chữ "dị đoan" bị gán vào "mê tín". Tôi cho rằng sự lầm lẫn này là do việc hiểu chữ "công" trong câu văn Khổng Tử. Chữ "công " này có tới hơn 10 nghĩa. Nhưng có hai nghĩa dễ nhận lầm là: 1)Công kích, đả phá; 2) Chuyên tâm nghiên cứu. Như trên đã nói. Khổng Tử không hề có thế lực gì để có thể công kích, đả phá các học thuyết khác. Ông chỉ dám khuyên học trò: chớ nên "công" (nghiên cứu) các "đoan" (học thuyết) khác, chỉ nên "công" đạo Nho ông thôi!

Có lẽ là do nhận lầm nghĩa chữ "công" - theo nghĩa thứ nhất, nên trong dân gian đã cho rằng tất cả những giáo lý, học thuyết nào trái với chủ nghĩa duy vật thì đều là "duy tâm". Mà đã là "duy tâm" thì thế tất là "mê tín", là "dị đoan" so với duy vật. Thế là phải "công", phải bài trừ! Cứ nói và viết mãi như thế, "mê tín dị đoan" hóa ra quen tai, trở thành quán ngữ. Tôi chắc nhiều người rất rõ sự lầm này, nhưng vẫn chiều theo tập quán mà nói mà viết cho "gần quần chúng". Sự lầm này là tai hại lắm: chẳng những sai về học thuật mà còn gây tác hại nhỡn tiền: hiện nay, hàng năm chúng tôi phải đi nghiên cứu ở các địa phương, vẫn thấy có những ngôi đình, chùa đã bị dỡ bỏ. Có ngôi do Pháp đốt, có ngôi do Mỹ ném bom. Đau xót lắm. Nhưng đau nhất là có ngôi chùa cho đến những năm 80, chính quyền xã vẫn dỡ bỏ với lý do "bài trừ mê tín dị đoan"! Chùa đã dỡ, thì bia đá bị người ta mang về kê cột, đập lúa, làm cầu ao... Nay sờ đến để đọc, nhiều cái đã vỡ, hoặc chữ mòn hết cả! Đoàn chúng tôi, vào mùa hè năm 1993, tại một xã ở Bắc Ninh, đã từng ngẩn ngơ ngồi trên chiếc cầu ao bắc bằng tấm bia đá xanh khá lớn mà vết chân người đã dẵm mòn, nhẵn thín không còn một hàng chữ. Ghé sát mắt vào mặt bia dòm nghiêng, mong nhờ ánh sáng chiếu có thể giúp đọc được lờ mờ một chữ nào chăng, thì chỉ thu hoạch được một điều là: bia bắc làm cầu ao, mặt đá còn trơ lại sẽ bóng, nhẵn hơn rất nhiều những mặt bia bị mất chữ do mài dao, đập lúa! Chúng tôi chỉ còn biết đưa bàn tay vuốt vuốt trên trán bia, nơi còn hiện rõ những nét khắc chạm "rồng run" tiêu biểu của tấm bia đời Lý như thầm gửi lời chào vĩnh biệt một phế tích, một di sản văn hóa dân tộc để buồn bã tiếp tục hành quân sang thôn khác, xã khác xem còn tấm bia, quả chuông nào đặng cọ rửa sạch sẽ, để in cho đẹp, cho rõ chữ, mang về lưu giữ tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm.

Tôi dừng bút bài viết bày trong niềm biết ơn sâu sắc Thầy tôi - Giáo sư Cao Xuân Huy - người đã cho chúng tôi hiểu kỹ lưỡng về sự lắp ghép vô lối hai chữ "dị đoan" vào sau "mê tín" trong một buổi giảng thiên Vi chính sách Luận ngữ vào một sáng Thu muộn năm 1965, để hôm nay tôi được có dịp ngẫm lại lời giảng của Thầy mà thưa cùng nhà văn Thạch Quỳ và bạn đọc.

Hà Nội ngày 17 tháng 11 năm Mậu Dần -
Ngày giỗ lần thứ 26 các liệt sĩ và nạn nhân B52
      đêm 22 tháng Chạp năm 1972.

Đ.T.T
(134/04-00)



 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • ĐOÀN TUẤNThạch Lam qua đời cách đây đã hơn nửa thế kỉ. Ông để lại cho chúng ta một khối lượng tác phẩm không lớn nhưng chúng đã trở thành một mẫu số vĩnh hằng trong văn học Việt Nam. Tiếc rằng chúng ta đã không thể lưu giữ một bức chân dung nào của Thạch Lam. Thậm chí mộ ông được chôn cất nơi nào, cũng không ai biết.

  • NHẬT CHUNG       (Đọc bài thơ XÓM LỤT của anh Phạm Xuân Phụng)Anh Phụng là bác sĩ ở Bệnh viện Trung ương Huế. Tôi tìm hết trong tuyển tập HAI THẬP KỶ THƠ HUẾ, chỉ duy nhất bài thơ này viết về cảnh lụt lội hàng năm vẫn xảy ra ở mảnh đất nghèo khó. Trong những ngày đau buồn, khi nước vừa rút, trắng bợt trước mắt tôi những bài thơ tình èo uột nỉ non ẻo lả, và đứng dậy trước mắt tôi một bài thơ XÓM LỤT.

  • PHONG  LÊBến không chồng - Giải thưởng Hội Nhà văn năm 1991 đưa nhanh Dương Hướng lên một vị trí cao trong thành tựu văn học Đổi mới. Không thuộc đội ngũ “tiền trạm” xuất hiện từ đầu những năm 80 như Ma Văn Kháng, Nguyễn Khải, Nguyễn Minh Châu và Nguyễn Mạnh Tuấn (sinh năm 1948) - người cùng thế hệ với anh (sinh 1949), đến tuổi 40 mới bắt đầu trình làng với tập truyện ngắn Gót son (1989), thế mà chỉ 2 năm sau, Dương Hướng bỗng trở thành một “tên tuổi” với Bến không chồng, góp mặt cùng Mảnh đất lắm người nhiều ma của Nguyễn Khắc Trường, Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh làm nên một bộ ba sáng giá trong văn học mở đầu thập niên 90, năm năm sau khởi động của công cuộc Đổi mới.

  • HÀ QUANG MINHLTS: Liệu có phải văn hóa chỉ đơn thuần là văn hóa hay nói cách khác là chỉ chứa đựng các yếu tố văn hóa không? Câu trả lời chắc chắn là không. Văn hóa mang cả trong nó tính chính trị và kinh tế. Trong khuôn khổ bài viết này, chỉ nhắc tới tính kinh tế trong văn hóa mà thôi nhưng hy vọng nó sẽ đóng góp nhiều cho công cuộc xây dựng một xã hội văn minh hơn, công bằng hơn.

  • ĐỖ LAI THÚYVề Kinh Bắc với những hội hè, chùa chiền, với đồng chiều cuống rạ, dây bìm bìm, bí lông tơ, giun đất, con gà trụi, châu chấu.. làm người đọc nhớ đến dòng thơ viết về nông thôn, nhất là thơ Nguyễn Bính. “ Trong các nhà thơ cùng thời viết về nông thôn như Bàng Bá Lân, Anh Thơ, Đoàn Văn Cừ... có lẽ chỉ có Nguyễn Bính là nhận thức sâu sắc được sự thay đổi của thôn quê trước “ cuộc xâm lăng” của đô thị.

  • TRẦN VĂN TOÀN - NGUYỄN XUÂN DIÊN1. Ảnh hưởng của Thơ Đường đối với Thơ Mới là một vấn đề từ lâu đã được đề cập tới. Ngay từ năm 1942, Hoài Thanh- Hoài Chân trong Thi nhân Việt Nam mặc dù giành nhiều trang để miêu tả ảnh hưởng của thơ Pháp (đặc biệt là trường phái Tượng trưng) nhưng các ông đã trân trọng và có một chút hứng thú đặc biệt về ảnh hưởng của Thơ Đường đối với Thơ Mới (điều này được bộc lộ qua công phu miêu tả, khảo cứu và cụ thể hơn từ chính số lượng trang viết). Khi phân chia các dòng mạch Thơ Mới, Hoài Thanh- Hoài Chân nói tới dòng mạch chịu ảnh hưởng của thơ Pháp, dòng mạch mang tính cách Việt, đồng thời cũng nói tới dòng mạch chịu ảnh hưởng từ Đường thi.

  • HOÀNG NGỌC HIẾN…Trong thời kỳ đổi mới xuất hiện nhiều tác phẩm cảm hứng phê phán rất mạnh. Có những quan điểm và giọng điệu phê phán rất khác nhau: xót xa và lo thương, căm uất và hằn học, tỉnh táo và điềm đạm... Cảm hứng phê phán mang tinh thần hài hước khoan hòa sẽ tạo một vị trí đặc biệt cho Nguyễn Việt Hà trong văn xuôi Việt Nam đương đại…

  • ALEXANDER GENISTrên thị trường Mỹ đã xuất hiện những cuốn sách điện tử đầu tiên. “Softbook” - một đĩa điện tử có màn hình bọc da. Sức chứa - 100 000 trang, trọng lượng - 15 kg, giá cả - 300 đôla cộng 10 đôla kết nối mỗi tháng. “Paketbook” giá 500 đôla, nhưng đi kèm với nó phải có máy tính cá nhân. “Dedicate Reader” - một sổ tay điện tử. Nó giống như một cuốn sách thực sự, có một màn hình kép chứa các bản vẽ, bản đồ, sơ đồ, bảng biểu. Giá là 1500 đôla. Như kinh nghiệm cho thấy, không ai thích đọc văn bản theo màn hình, vì thế tại viện nghiên cứu “Media-lab” người ta đang tìm cách chế tạo thứ “mực điện tử” - những cái bao hết sức nhỏ có thể tùy theo cường độ và hướng của dòng điện sắp xếp lại với nhau để tạo thành văn bản. Theo cách đó, gần như loại sách bằng giấy thông thường có thể được in lại - thay một nội dung này bằng một nội dung khác. Tờ “New York Times” viết: “Ngay giờ đây đã thấy rõ sách điện tử là điều tất yếu. Nếu như không phải là sự thay thế sách in, thì cũng là sự luân phiên nó”. (Theo báo chí)

  • TRẦN ANH PHƯƠNGCầm trên tay tập thơ "Người hái phù dung" của Hoàng Phủ Ngọc Tường tôi như đọc với chính mình giữa đêm khuya lặng lẽ bên ngọn đèn. Cảm nhận đầu tiên về thơ anh không phải thơ để đọc giữa chốn đông người hay ở trong hội trường lớn, thơ anh chỉ đến với người đọc khi chỉ còn lại một mình đối diện với chính mình, tìm lại mình trong những con chữ lan toả như từng đợt sóng, xâm chiếm choáng ngợp lòng người...

  • TRẦN THIỆN KHANH Inrasara nhập cuộc văn chương từ rất sớm. Ngòi bút của Inrasara chạm được vào những vấn đề cốt tử của nghệ thuật. Inrasara đã sống thực sự với đời sống văn chương đương thời.

  • HUYỀN SÂM - NGỌC ANH 1. Umberto Eco - nhà ký hiệu học nổi tiếng.Umberto Eco chiếm một vị trí rất đặc biệt trong nền lý luận đương đại của Châu Âu. Ông là một triết - mỹ gia hàn lâm, một nhà ký hiệu học uyên bác, một tiểu thuyết gia nổi tiếng và là giáo sư danh dự của trường Đại học Bologne ở Italia. Tư tưởng học thuật của ông đã tác động mạnh mẽ, tích cực đến đời sống trí tuệ của sinh viên và giới nghiên cứu trong suốt nửa thế kỷ qua. Ông có mặt trong danh sách của hai mươi nhà tư tưởng đương đại lớn nhất thế giới, và cũng là ứng cử viên thường trực của Viện Hàn lâm Thụy điển về việc bình chọn giải Nobel văn học.

  • ĐỖ NGUYỄN VIỆT TƯ         (Nhân đọc thơ Hoàng Vũ Thuật)Trong con người cũng như trong vũ trụ luôn luôn hiện diện một mâu thuẫn bất biến, nhờ cái khối mâu thuẫn này mà nó tồn tại, phát triển và trở nên thống nhất. Con người luôn đi tìm chính mình trong một cuộc phiêu lưu vô định, không bao giờ bằng lòng với những cái đã có, bản ngã lúc nào cũng thôi thúc sáng tạo để tìm ra cái mới. Nhà thơ luôn đồng hành với cuộc phiêu lưu của những con chữ để đi đến những miền đất lạ, những vùng cảm xúc.

  • NGUYỄN KHOA BỘI LANSau mấy tháng mưa tầm tã và lạnh thấu xương, qua đầu tháng chạp âm lịch, toàn khu Hạ Lào bắt đầu tạnh. Mặt trời lại hiện ra đem ánh sáng sưởi ấm những khu rừng bạt ngàn từ Trường Sơn lượn xuống. Ở các suối nước không còn chảy như thác đổ, ở Xê Công dòng nước cũng đã trở lại hiền hòa. Các con đường lớn, đường nhỏ bắt đầu khô ráo.

  • TRẦN ĐƯƠNGTôi được làm quen và có quan hệ cởi mở với nhà thơ Tố Hữu từ mùa thu năm 1973, sau khi ông dẫn đầu Đoàn đại biểu Đảng ta đi dự Đại hội đại biểu Đảng Cộng sản Đức (DKP) họp tại thành phố cảng Hăm-bugr). Từ  miền Tây, ông sang Béc-lin, Cộng hòa Dân chủ Đức, theo lời mời của Bộ chính trị Đảng xã hội chủ nghĩa thống nhất Đức (SED) với mục đích thăm, nghiên cứu và trao đổi về công tác tư tưởng giữa hai Đảng.

  • TRẦN THÁI HỌCĐến nay, vấn đề giá trị nghệ thuật không còn là vấn đề thời sự được nhiều người trong giới phê bình quan tâm bàn cãi. Sự lắng lại trong không khí phê bình về vấn đề này, vốn đã trải qua một thời kì tranh luận sôi nổi kéo dài hàng chục năm trên văn đàn gắn liền với những quan điểm triết học và mỹ học khác nhau, thậm chí đối lập nhau.

  • HÀ VĂN THỊNH Trên trái đất này, có lẽ chỉ có các nhà thơ mới quan niệm cuộc đời là một trò chơi. Ngay cả Thánh Kinh, khi bàn về lẽ khởi - tận của kiếp người cũng phải than: thân cát bụi trở về cát bụi. Lời nguyền đó là tiếng kêu bi thương từ sâu thẳm của hàng triệu năm đau đớn để sống và, để chết. Từ ngày đầu tiên sinh ra loài người, Adams  đã phải dắt díu Éva trốn chạy khỏi Thiên Đường trong nước mắt và uất hận; đau đớn và tuyệt vọng; cô đơn và sỉ nhục... Đó là những điều ngăn cản việc biến cuộc đời thành một trò chơi.

  • NGUYỄN THAM THIỆN KẾ... Đức Phật, nàng Savitri và tôi sẽ là cuốn tiểu thuyết quan trọng nhất của Hồ Anh Thái, đồng thời nó sẽ giữ ngôi vị lâu dài là tiểu thuyết duy nhất trong văn học Việt lấy cuộc đời giáo chủ Phật giáo làm nguồn cảm hứng. Và sẽ còn lâu lắm văn chương Việt mới có một nhà văn đủ tự tin cũng như tài năng để động vào bàn phím viết về đề tài này. Nó cũng sẽ là thời gian cộng trừ 20 năm, nếu như nhà văn nào đó bây giờ mới bắt đầu tìm hiểu văn hóa Ấn...

  • HOÀNG NGỌC HIẾNNhan đề của tập thơ khiến ta nghĩ Trần Tuấn đặc biệt quan tâm đến những ngón tu từ, mỹ từ của thi ca, thực ra cảm hứng và suy tưởng của tác giả tập trung vào những vấn đề tư tưởng của sự sáng tạo tinh thần: đường đi của những người làm nghệ thuật, cách đi của họ và cả những “dấu chân” họ để lại trên đường.

  • TRẦN ĐÌNH SỬTrong sáng tác văn học của nhà văn Lỗ Tấn, Cỏ dại  là tập thơ văn xuôi giàu tính hiện đại nhất xét về tư duy, tư tưởng và hình ảnh. Tuy nhiên trong một thời gian dài, phẩm chất nghệ thuật này đã không được nhìn nhận đúng mức.

  • HOÀNG NGỌC HIẾN(Trích đăng Lời giới thiệu “Tuyển tập Minh triết phương Đông - Triết học phương Tây” của Hoàng Ngọc Hiến)