Đặc biệt ngoài những hình ảnh minh họa được rút ra từ nhiều nguồn, các tác giả đã cho in vào phần phụ lục một bản Kiều Nôm và cho rằng đây là một bản Nôm “thuộc loại xưa nhất, là thủ bút của cụ Tam nguyên Vị Xuân Trần Bích San (1838-1877)”. Mặc dù nguyên văn lời giới thiệu ở trang bìa 4 như thế nhưng trong lời dẫn giải về bản truyện Kiều Nôm in ở phần phụ lục các tác giả vẫn còn dè dặt chứ chưa đoan chắc đây chính là thủ bút của Tam nguyên Trần Bích San. Vì vậy họ đã cho in một trang trong bài Văn sách kỳ thi Đình của Trần Bích San để đối chiếu, đồng thời cũng in thủ bút lời ghi chú của cụ Giản Chi trên bản truyện Kiều Nôm nhằm minh xác cho bản Kiều Nôm này.
Là những người có sở thích tìm hiểu và thường xuyên nghiên cứu di sản Hán Nôm của cha ông, khi đọc được các bài giới thiệu trên báo chí về cuốn “TKTC” chúng tôi đã cố gắng tìm mua cho bằng được, song sách phát hành về đến Huế hơi muộn nên đến hôm nay chúng tôi mới có được nó trong tay. Việc đầu tiên là chúng tôi xem bản Nôm ở phần phụ lục, nếu đây là bản Kiều Nôm do chính tay cụ Tam nguyên Trần Bích San viết thì quả là một bản Nôm quí, vì cho đến nay chúng ta vẫn chưa tìm được bản gốc cuốn truyện Kiều bằng chữ Nôm của cụ Nguyễn Du, ngoài bản Kim Vân Kiều tân truyện của Liễu Văn Đường in năm Tự Đức thứ 24 (1871), các bản còn lại đều được in cách xa sau thời của cụ Trần Bích San.
Vậy bản Kiều Nôm này có phải là thủ bút của Tam nguyên Trần Bích San hay không? Cụ Giản Chi cho rằng đây chính là thủ bút của cụ Trần Bích San (như trong lời ghi chú), còn tác giả thì chưa dám nói chắc. Riêng chúng tôi, bằng trực giác vốn có khi tiếp xúc với văn bản, chúng tôi không ngần ngại mà khẳng định rằng đây là một bản Nôm quí nhưng tuyệt nhiên không phải là thủ bút của Tam nguyên Trần Bích San, vì lẽ: Trần Bích San là con cụ Trần Doãn Đạt, hai cha con đều thi đỗ và cùng làm quan dưới thời Tự Đức (Trần Doãn Đạt đỗ Phó bảng khoa Nhâm Tuất (1862), Trần Bích San đỗ Tam nguyên Hoàng giáp khoa Ất Sửu (1865), Trần Bích San từng được vua Tự Đức ban tặng tên là Hy Tăng). Tên húy của vua Tự Đức là Nguyễn Phúc Thì () mà trong bản Kiều Nôm này chữ thì hay thời () không được viết theo lối kiêng húy là (辰,thìn hay thần), như trong các văn bản Hán Nôm dưới thời vua Tự Đức, ví dụ bản chụp Chinh Phụ Ngâm diễn ca chữ Nôm trong phụ lục cuốn Chinh Phụ Ngâm của Vân Bình Tôn Thất Lương, NXB Tân Việt 1950 viết húy chữ thì ra thìn hết.
Sau đó chúng tôi xem tới bản văn sách thi Đình của Trần Bích San, mà TKTC chụp lại một trang, có ghi rõ là: rút trong tập Mai Nham Thi thảo (Mai Nham là tên hiệu của Trần Bích San), do anh Nguyễn Nguyên được một người bạn cùng quê là Nguyễn Văn Huyền đưa cho và mang về từ Nam Định (quê của Trần Bích San), và theo anh Nguyên thì đây là bút tích của Trần Bích San. Xem qua chúng tôi thấy có các chữ cơ (機), thể (體), tẫn (儘)… được viết giản thể là (机), (), (侭)… như thế nó chỉ là một bản sao chép lại chứ không phải chính văn, vì chính văn thi Đình không bao giờ dùng lối viết “đơn”, chúng tôi đã trao đổi với Nhà giáo Ưu tú Nguyễn Đình Thảng, một chuyên gia về Hán Nôm, và được khẳng định điều này. Rất tiếc cả tập Mai Nham thi thảo chúng tôi chưa trông thấy, dù là bản sao chụp, nên chưa có thể phân tích cụ thể hơn, nhưng bảo tờ văn sách này là thủ bút của Trần Bích San thì mới chỉ là lời nói miệng chưa qua khảo chứng.
Ông Trần Văn Chánh có ghi rõ là bên lề bản Kiều Nôm có rải rác những lời ghi chú bằng chữ Hán, nhưng chúng tôi không thấy gì cả, ông Chánh có gởi lời cảm ơn tới người xử lý lại văn bản (chắc dùng kỹ thuật sửa ảnh scan vi tính) để có một bản Kiều Nôm sạch cung cấp cho bạn đọc, nhưng riêng với chúng tôi bị mất mấy “lời chú rải rác” đó lại thấy đáng tiếc, biết đâu những chú thích đó lại có thể cho chúng ta biết thêm những thông tin về văn bản.
Cũng nên nói thêm về lời ghi chú của cụ Giản Chi được chụp in lại trong TKTC phải ngắt câu như sau: “Bản chữ nôm này do ông nội để lại. Quí là vì bút tích của cụ Tam Nguyên Vị xuân Trần Bích San, ông ngoại anh Hoàng Châu Hoạch, cháu ngoại cụ Trần. Anh Hoạch là con cụ Hoàng Tài làng Cót”. Do cụ Giản Chi quá cẩn thận đã nói Trần Bích San là ông ngoại anh Hoạch, lại ghi thêm vào “cháu ngoại cụ Trần” và không bỏ dấu chấm hay phẩy sau chữ cụ Trần nên các tác giả TKTC lại hiểu Hoàng Châu Hoạch là “cháu ngoại cụ Trần Anh Hoạch”! và cho là khó hiểu sao lại có chuyện trùng tên giữa ông bà và hàng con cháu như vậy.
Sau đây chúng tôi đưa ra một số câu ở đoạn đầu bản Kiều Nôm “Trần Bích San” mà chúng tôi tìm thấy có sai khác với các bản đã phổ biến (bản Kiều Oánh Mậu, Quan Văn Đường, Bùi Kỷ - Trần Trọng Kim, Chiêm Vân Thị v.v…):
Câu 10: Bốn phương vắng (永) lặng ba (
Tin nổi bật
-
HOÀNG VŨ THUẬTChúng ta đã có nhiều công trình, trang viết đánh giá nhận định thơ miền Trung ngót thế kỷ qua, một vùng thơ gắn với sinh mệnh một vùng đất mà dấu ấn lịch sử luôn bùng nổ những sự kiện bất ngờ. Một vùng đất đẫm máu và nước mắt, hằn lên vầng trán con người nếp nhăn của nỗi lo toan chạy dọc thế kỷ. Thơ nảy sinh từ đó.
-
BÙI QUANG TUYẾNThơ mới là một hiện tượng nổi bật của văn học Việt Nam nói chung và thơ ca nói riêng trong thế kỷ XX. Nó vừa ra đời đã nhanh chóng khẳng định vị trí xứng dáng trong nền văn học dân tộc với các "hoàng tử thơ": Thế Lữ , Xuân Diệu, Huy Cận, Lưu Trọng Lư, Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử v.v... Đồng thời, Thơ mới là một hiện tượng thơ ca gây rất nhiều ý kiến khác nhau trong giới phê bình, nghiên cứu và độc giả theo từng thời kỳ lịch sử xã hội, cho đến bây giờ việc đánh giá vẫn còn đặt ra sôi nổi. Với phạm vi bài viết này, chúng tôi điểm lại những khái niệm về Thơ mới và sự đổi mới nghệ thuật thơ của các bậc thầy đi trước và tìm câu trả lời cho là hợp lý trong bao nhiêu ý kiến trái ngược nhau.
-
MẠNH LÊ Thơ ca hiện đại Việt Nam thế kỷ XX đã thu được những thành tựu to lớn đóng góp vào sự phát triển của lịch sử thơ ca dân tộc. Đặc biệt từ ngay sau Cách mạng tháng 8 năm 1945, Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời thay thế chế độ phong kiến thực dân hơn trăm năm đô hộ nước ta cùng với khí thế cách mạng kháng chiến cứu nước theo lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh tháng 12 năm 1946 đã thổi vào đời sống văn học một luồng sinh khí mới để từ đó thơ ca hiện đại Việt Nam mang một âm hưởng mới, một màu sắc mới.
-
NGUYỄN KHẮC THẠCHNếu gọi Huế Thơ với tư cách đối tượng thẩm mĩ thì chủ thể thẩm mĩ của nó trước hết và sau cùng vẫn là sự hoá sinh Thơ Huế. Đương nhiên, không hẳn chỉ có Thơ Huế mới là chủ thể thẩm mĩ của Huế Thơ và cũng đương nhiên không hẳn chỉ có Huế Thơ mới là đối tượng thẩm mĩ của Thơ Huế. Huế Thơ và Thơ Huế vẫn là hai phạm trù độc lập trong chừng mực nào đó và có khi cả hai đều trở thành đối tượng thẩm mĩ của một đối tượng khác.
-
ĐỖ LAI THÚYThanh sơn tự tiếu đầu tương hạc Nguyễn KhuyếnNói đến Dương Khuê là nói đến hát nói. Và nói đến hát nói, thì Hồng Hồng, Tuyết Tuyết làm tôi thích hơn cả. Đấy không chỉ là một mẫu mực của thể loại, mà còn làm một không gian thẩm mỹ nhiều chiều đủ cho những phiêu lưu của cái đọc.
-
NGUYỄN NGỌC THIỆNHải Triều tên thật là Nguyễn Khoa Văn, sinh năm 1908 trong một gia đình Nho học, khoa bảng. Năm 20 tuổi, trở thành đảng viên trẻ của Tân Việt cách mạng Đảng, Nguyễn Khoa Văn bắt đầu cầm bút viết báo với bút danh Nam Xích Tử (Chàng trai đỏ). Điều này đã khiến trong lần gặp gỡ đầu tiên, người trai có "thân hình bé nhỏ và cử chỉ nhanh nhẹn theo kiểu chim chích" (1) ấy đã gây được cảm tình nồng hậu của Trần Huy Liệu- chủ nhiệm Nam Cường thư xã, người bạn cùng trang lứa tuy vừa mới quen biết, nhưng đã chung chí hướng tìm đường giải phóng cho dân tộc, tự do cho đất nước.
-
TÔ VĨNH HÀ Huế đang trở lạnh với "mưa vẫn mưa bay" giăng mờ như hư ảo những gương mặt người xuôi ngược trên con đường tôi đi. Tôi giật mình vì một tà áo trắng vừa trôi qua. Dáng đi êm nhẹ với cánh dù mỏng manh như hơi nghiêng xuống cùng nỗi cô đơn. Những nhọc nhằn của tuổi mơ chưa đến nỗi làm bờ vai trĩu mệt nhưng cũng đủ tạo nên một "giọt chiều trên lá(1), cam chịu và chờ đợi nỗi niềm nào đó hiu hắt như những hạt mưa...
-
NGUYỄN HỒNG DŨNG1. Một cuộc đời lặng lẽ và những truyện ngắn nổi danhO' Henry, tên thật là William Sydney Porter, được đánh giá là người viết truyện ngắn xuất sắc nhất của nước Mỹ những năm đầu thế kỷ XX. Ông sinh tại Greenboro, tiểu bang North Carolina vào năm 1862. Năm 15 tuổi (1877), ông thôi học và vào làm việc trong một hiệu thuốc tây. Vào tuổi hai mươi, ông bị đau nặng và sức khoẻ sa sút nên đã đến dưỡng sức ở một nông trại tại tiểu bang Texas. Ông đã sống ở đấy hai năm, đã làm quen với nhiều người và hiểu rất rõ tính cách miền Tây. Sau này, ông đã kể về họ rất sinh động trong tập truyện ngắn có tựa đề đầy xúc cảm Trái tim miền Tây.
-
MAI KHẮC ỨNGCó thể sau khi dẹp được loạn 12 sứ quân, Đinh Tiên Hoàng (968- 979) thống nhất lãnh thổ và lên ngôi hoàng đế, đã đặt được cơ sở ban đầu và xác định chủ quyền Đại Cồ Việt lên tận miền biên cương Tây Bắc vốn là địa bàn chịu ảnh hưởng Kiểu Công Hãn. Trên cơ sở 10 đạo thời Đinh nhà vua Lý Thái Tổ (1010- 1028) mới đổi thành 24 phủ, lộ. Nguyễn Trãi viết Dư địa chí (thế kỷ XV) vẫn giữ nguyên tên gọi đạo Lâm Tây. Tức vùng Tây- Bắc ngày nay.
-
TRẦN ANH VINHÂm vang của những sự kiện xẩy ra năm Ất Dậu (1885) không những vẫn còn đọng trong tâm trí người dân núi Ngự mà còn được ghi lại trong một số tác phẩm. Bài vè “Thất thủ Kinh đô” do cụ Mới đi kể rong hàng mấy chục năm ròng là một tác phẩm văn học dân gian, được nhiều người biết và ngưỡng mộ. Riêng Phan Bội Châu có viết hai bài:+ Kỷ niệm ngày 23 tháng Năm ở Huế (Thơ)+ Văn tế cô hồn ngày 23 tháng Năm ở Kinh thành Huế.
-
HOÀNG CÔNG KHANHCó một thực tế: số các nhà văn cổ kim đông tây viết tiểu thuyết lịch sử không nhiều. Ở Việt Nam càng ít. Theo ý riêng tôi nguyên nhân thì nhiều, nhưng cơ bản là nhà văn viết loại này phải đồng thời là nhà sử học, chí ít là có kiến thức sâu rộng về lịch sử. Cũng nhiều trường hợp người viết có đủ vốn liếng cả hai mặt ấy, nhưng hoặc ngại mất nhiều công sức để đọc hàng chục bộ chính sử, phải sưu tầm, dã ngoại, nghiên cứu, đối chiếu, chọn lọc hoặc đơn giản là chưa, thậm chí không quan tâm đến lịch sử.
-
TRƯƠNG ĐĂNG DUNG Tặng Đỗ Lai ThuýChủ nghĩa hiện đại là kết quả của những nỗ lực hiện đại hoá đời sống và tư duy xẩy ra từ những năm cuối của thế kỷ XIX, ở Châu Âu. Những thành tựu nổi bật của khoa học tự nhiên, của triết học, xã hội học và tâm lí học đã tác động đến cách nghĩ của con người hiện đại trước các vấn đề về tồn tại, đạo đức, tâm lí. Tư tưởng của Nietzsche, Husserl, hay Freud không chỉ ảnh hưởng đến tư duy hiện đại mà tiếp tục được nhắc đến nhiều ở thời hậu hiện đại.
-
ĐẶNG TIẾNTân Hình Thức là một trường phái thi ca hiện đại được phổ biến từ năm bảy năm nay, phát khởi do Tạp Chí Thơ, ấn hành tại Mỹ, chủ yếu từ số 18, xuân 2000 “chuyển đổi thế kỷ”, và được nhiều nhà văn, nhà thơ trong và ngoài nước hưởng ứng. Tên Tân Hình Thức dịch từ tiếng Anh New Formalism, một trường phái thơ Mỹ, thịnh hành những năm1980 - 1990.
-
NGUYỄN ĐĂNG ĐIỆP Một ngày kia, cát bụi vùng Hoan Diễn đã sinh tạo một “kẻ ham chơi”. Y cứ lãng đãng trong đời như một khách giang hồ mang trái tim nhạy cảm, một trái tim đầy nhạc với những đốm lửa buồn. Để rồi sau những cuộc say tràn cung mây, khi dòng cảm hứng chợt bùng lên từ những vùng u ẩn nằm sâu trong cõi nhớ, những giai âm ùa về như những luồng điện làm vỡ òa bí mật: có thương có nhớ có khóc có cười- có cái chớp mắt đã ngàn năm trôi. Đây là những câu thơ khép lại một trong những bài thơ hay nhất của Nguyễn Trọng Tạo: Đồng dao cho người lớn(1).
-
NGUYỄN KHẮC PHÊTừ lâu, ở Huế, nhiều người đã biết tiếng ba công chúa, ba nữ sĩ (Tam Khanh) con vua Minh Mạng, em gái nhà thơ nổi tiếng Tùng Thiện Vương Miên Thẩm, trong đó MAI AM là người được nhắc đến nhiều nhất. Mai Am nổi tiếng trước hết vì tài thơ và cùng vì cuộc đời riêng không được may mắn của bà, tuy bà là người sống thọ nhất trong “Tam Khanh”.
-
LÊ DỤC TÚCùng với nghệ thuật tiếp cận và phản ánh hiện thực, nghệ thuật miêu tả và khắc họa chân dung nhân vật, nghệ thuật châm biếm và sử dụng ngôn ngữ cũng là một trong những nét nghệ thuật đặc sắc ta thường gặp trong các phóng sự Việt Nam 1932 - 1945.
-
NGUYỄN VĂN DÂNTrong thế kỷ XX vừa qua, thế giới, đặc biệt là thế giới phương Tây, đã sản sinh ra biết bao phương pháp phục vụ cho nghiên cứu văn học, trong đó phương pháp cấu trúc là một trong những phương pháp được quan tâm nhiều nhất.
-
AN KHÁNHHai mươi tám năm kể từ ngày chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam, đủ để một thế hệ trưởng thành, một dòng thơ định vị. Tháng 3 vừa qua, Hội Văn nghệ Hà Nội và nhóm nhà thơ - nhà văn - cựu binh Mỹ có cuộc giao lưu thú vị, nhằm tìm ra tiếng nói "tương đồng", sự thân ái giữa các thế hệ Mỹ - Việt thông qua những thông điệp của văn chương.
-
TRẦN ĐÌNH SỬ Bạn đọc Việt Nam vốn không xa lạ với phê bình phân tâm học hơn nửa thế kỷ nay, bởi nó đã bắt đầu được giới thiệu vào nước ta từ những năm ba mươi, bốn mươi thế kỷ trước. Nhưng đáng tiếc nó đã bị kỳ thị rất nặng nề từ nhiều phía. Giống như nhân loại có thời phản ứng với Darwin vì không chấp nhận lý thuyết xem con người là một loài cao quý lại có thể tiến hóa từ một loài tầm thường như loài khỉ, người ta cũng không thể chấp nhận lý thuyết phân tâm học xem con người - một sinh vật có lý trí cao quý lại có thể bị sai khiến bởi bản năng tầm thường như các loài vật hạ đẳng!
-
PHẠM ĐÌNH ÂN(Nhân kỷ niệm lần thứ 20 ngày mất của Thế Lữ 3-6-1989 – 3-6-2009)Nói đến Thế Lữ, trước tiên là nói đến một nhà thơ tài danh, người góp phần lớn mở đầu phong trào Thơ Mới (1932-1945), cũng là nhà thơ tiêu biểu nhất của Thơ Mới buổi đầu. Ông còn là cây bút văn xuôi nghệ thuật tài hoa, là nhà báo, dịch giả và nổi bật là nhà hoạt động sân khấu xuất sắc, cụ thể là đưa nghệ thuật biểu diễn kịch nói nước nhà trở thành chuyên nghiệp theo hướng hiện đại hóa.
|