NGUYỄN HUY KHUYẾN
Vườn Thiệu Phương là một trong những Ngự uyển tiêu biểu của thời Nguyễn, từng được vua Thiệu Trị xếp là thắng cảnh thứ 2 trong 20 cảnh của đất Thần Kinh. Khu vườn này đã được đi vào thơ ca của các vua nhà Nguyễn như là một đề tài không thể thiếu.
Cảnh vườn Thiệu Phương trong Tử Cấm Thành
Các vua Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức đều có thơ về vườn Thiệu Phương. Tuy nhiên lâu nay các nhà nghiên cứu mới chỉ tìm được một số bài của vua Minh Mạng và Thiệu Trị, còn của vua Tự Đức thì chưa được giới thiệu. May mắn thay, tại Đà Lạt, trong Dinh II còn lưu giữ được một số bài thơ của vua Tự Đức trên tấm bình phong quý, trên đó có khắc bài thơ Ngự chế về vườn Thiệu Phương. Thiết nghĩ đây là bài thơ hay, là tư liệu quý về vườn Ngự uyển, vì vậy chúng tôi xin được giới thiệu toàn văn bài thơ này.
Vườn Thiệu Phương trong chính sử
Thiệu Phương viên là một trong 4 Ngự uyển trong Hoàng thành, gồm Thiệu Phương Viên, Ngự Viên, Cơ Hạ Viên, Doanh Châu. Vườn được xây dựng từ năm 1828, thời Minh Mạng, sách Đại Nam thực lục cho biết “Làm vườn Thiệu Phương (ở bên tả trong cung thành), trong vườn dựng điện Hoàng Phúc cùng các đường, các biên và hồi lang (Cẩm Xuân đường, Di Nhiên đường, Hàm Xuân hiên, Vĩnh Phương hiên, Hồi lang chữ vạn, Tứ phương ninh bật đường, Nam Phong giải uẩn đường”. Phía đông, bên trong cửa Hưng Khánh, thuộc Tử Cấm Thành. Phía nam vườn là khu Duyệt Thị Đường; phía bắc - qua hồ Ngọc Dịch là Ngự Viên; phía tây là Thanh Hạ Thư Lâu (sau là Thái Bình Lâu) và phía đông là bờ tường phía đông của Tử Cấm thành. Quanh vườn có tường gạch bao bọc, cửa chính mở về phía nam. Vườn nổi tiếng với kiểu cấu trúc “vạn tự hồi lang”. Tại 4 góc của hồi lang này có 4 công trình kiến trúc nhỏ, gồm 2 đường và 2 hiên. Tên Thiệu Phương theo gốc Hán có nghĩa là “nối thơm” trỏ ý rằng khu vườn này là nơi tụ họp của các loài hoa thơm cỏ lạ nối đời tỏa hương thơm. Nơi đây là khu dạo chơi của vua và đình thần trong lúc rảnh rỗi. Sách Đại Nam thực lục cho biết thêm: “Vua đi chơi vườn Thiệu Phương, triệu đình thần vào hầu, cho ngồi ở hành lang chữ vạn, thong dong uống nước chè ăn quả rồi về”. Như vậy, vườn Thiệu Phương là một trong những nơi nghỉ ngơi của vua, chẳng thế mà các vua đã làm nhiều bài thơ về vườn này. Trong đó nổi tiếng là các vua như Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức.
Bài thơ Ngự chế của vua Tự Đức về vườn Thiệu Phương
Nguồn gốc của bài thơ theo như chúng tôi đọc được trên bức bình phong quý tại Dinh II - Đà Lạt. Bài thơ có tựa đề: Đông tình quá Thiệu Phương viên tùy bút, có nghĩa là: Làm thơ trong lúc qua vườn Thiệu Phương lúc trời hửng nắng mùa đông. Bài thơ viết bằng chữ Hán theo thể Hành sau đó được khắc lên gỗ. Bài thơ này có 4 câu theo thể thất ngôn tứ tuyệt. Cuối bài thơ được ghi rõ là Tự Đức Ngự chế thi, tức là thơ Ngự chế của vua Tự Đức.
Phiên âm bài thơ:
Dĩ quá tùng hiên hựu trúc hiên,
Lưu âm nhiễu các lục xâm môn.
Cơ kinh sương vũ hoàn vô dạng,
Lưu đắc thanh thông hộ ngự viên.
Dịch nghĩa: Đã đi qua mái hiên tùng lại qua hiên trúc,/ Tiếng nước chảy xung quanh màu xanh cây cối chen cả cửa./ Trải qua bao lần mưa gió còn không việc gì,/ Vẫn giữ được màu xanh bảo vệ cho vườn ngự.
Dịch thơ:
Đã qua hiên trúc lại hiên tùng,
Nước chảy bao quanh rợp bóng cây.
Bao lần sương gió hèn chi nhỉ,
Cây cối tốt tươi hộ ngự viên.
Qua bài thơ trên, chúng ta có thể hình dung được rằng, trong vườn Thiệu Phương trồng rất nhiều loại cây. Trong đó nổi tiếng nhất là vải, sau đó đến các loại khác như tùng, trúc. Trong Đại Nam thực lục, có ghi lại, năm Minh Mạng thứ 9 (1828), nhà vua đã từng mời quần thần vào vườn chơi và lệnh cho hái quả vải để ban cho mọi người và ông có làm thơ vịnh về việc này. Bài thơ của vua Tự Đức là một tư liệu hay về vườn Thiệu Phương, có thể phục vụ cho công tác trùng tu. Xin trân trọng giới thiệu.
N.H.K
(SH288/02-13)
Tuy chỉ là món ăn dân dã và phổ biến ở Huế, nhưng để chế biến được một tô bánh canh cá tràu ngon đúng vị… món ăn này cũng đòi hỏi người chế biến phải tỉ mẩn và khéo léo. Ở Huế, bánh canh có nhiều cách chế biến khác nhau, như bánh canh nấu tôm, chả cua, bò viên, da heo... Tuy nhiên, đặc sắc và thu hút nhất vẫn là bánh canh cá tràu (người Bắc gọi là cá quả, miền Nam gọi đó là cá lóc).
Huế những ngày này mưa dài lê thê. Từ sáng đến tối hầu như mưa không lúc nào ngớt. Đi kèm mưa là cái lạnh rét luồn vào da thịt, làm tím tái những khuôn mặt, bàn tay, đôi chân trần đang tất tả mưu sinh trên đường phố.
BẠCH LÊ QUANG
Nghệ thuật và âm nhạc nói riêng, khi vượt qua lằn ranh của hữu hạn sẽ trở thành những sấm truyền vĩnh hằng, một thứ Kinh mà con người sẽ truyền rao trong cõi nhân sinh đầy biến động.
HỒ THỊ HỒNG
Vua Thiệu Trị từng nói với bề tôi rằng: “Việc dạy học là chính sự trọng đại của triều đình”(1). Nhưng với truyền thống hiếu học của nhân dân ta, từ lâu vấn đề giáo dục đã được xã hội hóa một cách sâu rộng từ trong từng gia đình, dòng họ và toàn xã hội Việt Nam.
(SHO). “Đã mê ớt đỏ cay nồng
Tìm trong vị hến một dòng Hương xanh
Ruốc thơm, cơm nguội, rau lành
Mời nhau buổi sáng chân thành món quê”
PHẠM THỊ PHƯƠNG THẢO
Trong chuyến đi Huế dự lễ kỷ niệm ba mươi năm Tạp Chí Sông Hương vừa rồi, tôi được Tổng Biên Tập Hồ Đăng Thanh Ngọc ghé tai thông báo: “Chị cứ đi chơi Sông Hương và thăm quan quanh cố đô Huế những chỗ chưa biết, nhưng đừng nên khám phá hết để còn có cái thôi thúc mình lần sau vô Huế mà khám phá tiếp nữa. Nhưng dù đi đâu các anh chị cũng đừng quên đến thăm Gác Trịnh mới khánh thành nhé, hay lắm đấy, dù bận mấy cũng nên tranh thủ ghé thăm Gác Trịnh dù là vài phút ”.
HỒ ĐĂNG THANH NGỌC
Buổi sáng, tôi ngồi trong Gác Trịnh nhìn ra ngoài cửa sổ. Bên ngoài trời đang se sắt chuẩn bị mưa, sự se sắt nằng nặng.
PHẠM HUY THÔNG
Đầu năm 1986, nghĩ rằng năm nay là một năm có nhiều sự kiện trọng đại diễn ra trong nước ngoài nước, tôi e rằng kỷ niệm mùa hè 200 năm trước của Phú Xuân và của dân tộc, dù không phải là không có tầm vóc, có thể chỉ được chú ý có mức độ, - nếu có được nhắc đến.
LÊ HUY ĐOÀN
Những cửa thành của Kinh thành Huế ghi dấu những sự kiện từ kinh đô thất thủ ngày (23/5 năm Ất Dậu, 1885) sau cuộc chiến không cân sức giữa phe chủ chiến của triều đình Huế với giặc Pháp rồi đến sự tàn phá của thiên tai qua trận lụt 1953 làm 4 cửa thành đổ sập, rồi lại trải mình qua chiến sự Tết Mậu Thân (1968) với bao nhiêu vết hằn của bom đạn.
VÕ NGỌC LAN
Như một mặc định của thời gian khi Huế là kinh đô của cả nước và nơi đây cũng là kinh đô của những chiếc áo dài. Vì vậy con gái Huế được làm quen với tà áo dài rất sớm. Bởi khi mới sinh ra đã thấy mẹ, thấy bà, thấy những người phụ nữ chung quanh khoác trên mình chiếc áo dài.
LÊ PHƯƠNG LIÊN
…Đêm đêm rì rầm trong tiếng đất
Những buổi ngày xưa vọng nói về…
(Đất nước - Nguyễn Đình Thi)
G.S. TRẦN QUỐC VƯỢNG
Thế kỷ XVI chứng kiến sự vỡ ra của nền quân chủ quan liêu Nho giáo Việt Nam.
THANH TÙNG
Tháng 10/2012, tại khách sạn Rex - thành phố Hồ Chí Minh, chiếc bánh đậu xanh Phượng hoàng vũ khổng lồ của nghệ nhân ẩm thực Tôn Nữ Thị Hà và ái nữ Phan Tôn Tịnh Hải được vinh danh Kỷ lục châu Á - do Hội Kỷ lục châu Á công nhận.
HOÀNG PHỦ NGỌC PHAN
Ở Huế có nhiều món ngon nổi tiếng như bún bò, cơm hến, dấm nuốt, bánh khoái, bèo, nậm, lọc… điều này đã được nói nhiều. Nhưng còn nhiều chuyện có thể bạn không để ý lắm.
VÕ NGỌC LAN
Đã từ lâu danh xưng mai Huế như một mặc định cho loài hoa mai có năm cánh với sắc vàng rực rỡ. Loài hoa mai ấy chỉ sinh trưởng trên đất Cố đô và cũng là đặc sản của vùng sông Hương núi Ngự.
LÊ VĂN LÂN
Cuộc tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân 1968 với việc chiếm giữ Huế 26 ngày đêm đã tạo nên bước ngoặt lớn của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, làm sụp đổ chiến lược chiến tranh cục bộ của Mỹ - Ngụy, làm lung lay ý chí xâm lược của kẻ thù, buộc địch phải ngồi vào bàn đàm phán Paris.
NGUYỄN HỒNG TRÂN
Câu chuyện này do nhà thơ Bích Hoàng (tức Hoàng Thị Bích Dư - cựu nữ sinh trườngĐồng Khánh - Huế) kể lại cho tôi nghe trực tiếp vào đầu năm 2012 tại nhà riêng của cô ở 170 phố Cầu Giấy, Hà Nội.
TRẦN BẠCH ĐẰNG
Mỗi địa danh của đất nước ta chứa mãnh lực riêng rung động lòng người, từ những khía cạnh rất khác nhau. Có lẽ lịch sử và thiên nhiên vốn ghét bệnh "cào bằng", bệnh "tôn ti đẳng cấp" cho nên lưu dấu vết không theo một công thức nào cả. Quy luật khách quan ấy làm phong phú thêm đời sống nội tâm của dân tộc ta.
NGUYỄN ĐẮC XUÂN
Đề cập đến sự nghiệp cầm bút của Thượng Chi Phạm Quỳnh cần phải có một cái viện nghiên cứu làm việc trong nhiều năm mới hiểu hết được. Do hoàn cảnh lịch sử, tôi chưa bao giờ dám nghĩ đến mình có thể tìm hiểu một khía cạnh nào đó trong sự nghiệp to lớn của ông.
LTS: Đêm 30/8 vừa qua, tại Huế, Hội đồng toàn quốc họ Phạm Việt Nam tổ chức giới thiệu cuốn sách “Phạm Quỳnh - Một góc nhìn”, tập 2 do nhà sử học Nguyễn Văn Khoan biên soạn. Nhiều nhà nghiên cứu, nhiều văn nghệ sĩ tên tuổi của Huế đã đến dự và phát biểu ý kiến.