Về bài phú tự trào của cụ Phan Đăng Dư

09:41 27/11/2008
NGÔ ĐỨC TIẾNPhan Đăng Dư, thân phụ nhà cách mạng Phan Đăng Lưu là người họ Mạc, gốc Hải Dương. Đời Mạc Mậu Giang, con vua Mạc Phúc Nguyên lánh nạn vào Tràng Thành (nay là Hoa Thành, Yên Thành, Nghệ An) sinh cơ lập nghiệp ở đó, Phan Đăng Dư là hậu duệ đời thứ 14.

Phan Đăng Dư lúc nhỏ theo học chữ Hán, có dự thi hương nhưng không đậu đạt, về nhà làm ruộng, bốc thuốc nam và làm thầy địa lý. Ông là người yêu nước, thương dân, có tham gia phong trào chống Pháp của cụ cử nhân Chu Trạc năm 1908 nhưng may mắn không bị giặc bắt. Vốn tính thẳng thắn, cương trực, ông thường bàn luận chuyện thế sự với những người trong họ, trong làng, kể cả con cái. Có người nhầm tưởng cha con bất đồng chính kiến, kỳ thực ông làm thế để che mắt bọn mật thám. Ông ham thơ phú văn chương - Bài phú “Tự trào” của ông viết trước năm 1945, phần nào nói lên chí hướng và nỗi niềm của ông trước thời cuộc.
Trong phong trào giảm tô và thí điểm cải cách ruộng đất, ông bị bắt giam ở nhà tù Bến Hới (Tân Kỳ, Nghệ An) và mất ở đó năm 1954, trước khi Đảng ta tiến hành công cuộc sửa sai sau cải cách ruộng đất để giải oan cho những người như ông.

Lúc sinh thời, Phan Đăng Dư kết duyên cùng bà Trần Thị Liễu, một phụ nữ hiền thục, hết lòng yêu thương chồng con. Ông bà có công sinh thành dưỡng dục bốn người con:
-Con trai cả là nhà cách mạng Phan Đăng Lưu.
-Con trai thứ hai là ông Phan Đăng Triều, một công chức cũ nhưng có hoạt động cách mạng và bị giặc Pháp theo dõi. Ông là thân sinh PGS, TSKH Phan Đăng Nhật, một nhà khoa học vừa nhận giải thưởng Nhà nước về các công trình nghiên cứu về Sử thi Tây Nguyên.
-Con trai thứ ba là Phan Đăng Toàn, làm thông phán Toà sứ Hà Tĩnh nhưng là cơ sở ngầm của cách mạng. Năm 1946 làm Phó Chủ tịch Uỷ ban Kháng chiến Hà Tĩnh, sau làm Trưởng phòng tư liệu báo Nhân Dân. Ông là thân sinh nhạc sỹ Hồng Đăng.
-Con trai thứ 4 là Phan Đăng Dương, hiện còn sống ở TP Hồ Chí Minh.
Các con, cháu, chắt của cụ Phan Đăng Dư đều đã và đang noi gương bậc tiền bối và có những đóng góp cho sự nghiệp xây dựng đất nước.

Nội dung bài phú:

Tự trào

Xưa có một thầy:
Vốn giòng hào kiệt
Gặp bước long đong...
Trót sinh ra giữa buổi nhiễu nhương, cũng quyết theo đòi nghiên bút;
Từng nghĩ lắm lời khắc khoải, thầm mong rửa nhục cha ông.
Chí những toan cứu vãn sơn hà, giận nỗi không tài Gia Cát (1)
Lòng vốn ước Khuông phò xã tắc, buồn thay thiếu trí Khương Công (2)
Thôi đành nương náu cho qua ngày tháng, duy gắng giữ gìn để trọn thuỷ chung.


Vậy cho nên:
Khi bàn cờ, khi chén rượu, khi vọng nguyệt, khi thưởng hoa, ngất ngưởng tao nhân mặc khách.
Lúc ngọn suối, lúc hòn non, lúc trong mây, lúc hướng gió, ung dung dạo gót tiên bồng.
Đôi phen tay xách chiếc la bàn, tấp tểnh đóng vai Tả Ao (3), Hoà Chính (4)
Mấy buổi đầu kê pho Nam dược, lân la nối gót Tuệ Tĩnh (5), Lãn Ông (6).
Xót xóm làng trong cơn hoạn nạn, chẳng quản nửa đêm gà gáy, bắt mạch, bốc thuốc thang, cân nhắc bên hàn, bên nhiệt. Giúp đồng bào gặp bước khó khăn, không nề nắng dãi mưa dầu, xoay dương cơ, đặt mồ mả, nhắn nhe tay hổ, tay long.
Lúc trong làng ngoài xã có kẻ cười người khóc, lập tức vì bà con vui mướn thương vay, chắp nhặt phú, thơ, trước, đối.
Khi ông đĩ (7), bà cu (8) lâm bệnh trúng cơn đau, sẵn sàng vì sự chủ cầu trời vái Phật, đoán mò hoạ, phúc, cát, hung.
May mắn ra phúc chủ lộc thầy, thủ lợn, xôi gà có đủ.
Khó khăn lắm cây nhà lá vườn, cơi trầu hươu rượu cũng xong.

Như thế là:
Cuộc đời lặng lẽ
Ngày tháng thong dong...
Trời Kiệt Trụ mơ màng Nghiêu Thuấn
Cuộc Á A thêm thương nhớ Lạc Hồng.
Thấy thoáng bóng câu, chỉ mấy chốc mắt loà chân chậm, lơ thơ tin nhạn, kịp đòi khi đầu bạc răng long.
Rồi trí cũng kiệt, thân cũng mòn, gửi chí lớn vào đàn con cháu.
Nghĩ công không thành, danh không toại, ôm hận trường về với tổ tông.
 

N.Đ.T
(Sưu tầm, giới thiệu)
(nguồn: TCSH số 205 - 03 - 2006)

 

 


----------------------------
(1), (2): Gia Cát Lượng, Khương Tử Nha: các vị danh tướng của Trung Quốc
(3), (4): Tả Ao, Hoà Chính: những nhà phong thuỷ nổi tiếng của Việt
(5), (6) Tuệ Tĩnh, Lãn Ông: các danh y của Việt
(7), (8): Tiếng địa phương Nghệ Tĩnh chỉ người sinh con gái, con trai đầu lòng.

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NGUYỄN ĐÌNH CHÍNH             Phóng sự điều tra

  • THỦY THANHLâu nay, "quả lắc" vì sự trong sáng tiếng Việt dường như đã trì vào điểm chết của dây dọi. Những mặc cảm, thành kiến hoặc dị ứng về sự "ga lăng ngôn ngữ" trước áp lực của thời đại tin học cũng chững lại như một thái độ thăm dò. Suy cho cùng thì ngôn ngữ cũng có đời sống riêng và nó bao gồm cả thể vía lẫn thể xác. Nó cũng "hữu sinh tất hữu diệt" trong luật tiến hóa và đào thải như nhiên. Ngôn ngữ nói chung là một phương pháp hệ thống hóa và tích lũy tri thức theo sự diễn tiến về mặt lịch đại và sự tiệm tiến về mặt đồng đại.

  • Các lý thuyết văn học tiếp cận văn chương theo những cách khác nhau và có thể được phân loại theo những tiêu chí khác nhau. Tuy nhiên, có một điểm chung tối quan trọng không thể chối cãi: tác phẩm văn học là một hiện tượng sử dụng ngôn ngữ trong đó không thể thiếu vai trò của tác giả, độc giả cũng như thực tại, cho dù mỗi yếu tố tham gia ở những mức độ khác nhau.

  • Viết là một công việc bất hạnh. Một trong những yếu tố gây khốn khổ cho nhà văn là cốt truyện. Cốt truyện là “ông ngoáo ộp” dọa dẫm người cầm bút và cũng là nguyên nhân chung dẫn đến sự bế tắc của họ trong quá trình triển khai tác phẩm.

  • Trên thế giới, ít có loài hoa nào ra đời sớm, phổ biến với nhiều biểu trưng cao quý như hoa sen. Dáng hình đẹp, màu sắc trang nhã, hương thơm thùy mị, thanh khiết, không nhiễm bẩn... chừng ấy đức tính tốt đẹp đã đưa hoa sen thành biểu trưng cao quý của đạo Phật.

  • TRẦN ĐƯƠNGGoethe (1749-1832) hoạt động trên rất nhiều lĩnh vực và ở lĩnh vực nào ông cũng thâu tóm những tri thức đồ sộ, cũng đạt được những thành tựu xuất sắc. Tên tuổi ông trở thành niềm tự hào của cả dân tộc, được Các Mác gọi là người Đức vĩ đại nhất”.

  • AN CHÍNHCó lẽ Hồng Nguyên là một trong những nhà thơ rất thành công về việc dùng "tiếng địa phương trong thơ của mình.

  • Flier Andrei Jakovlevich(Tiến sĩ triết học, nhà văn hóa học của Nga)

  • HOÀNG NGỌC HIẾN    (Đọc "Văn hóa chính trị - truyền thống và hiện đại" (1) của Nguyễn Hồng Phong)Đây là công trình nghiên cứu tổng kết có tính chất chiến lược Chương trình khoa học công nghệ cấp Nhà nước KX06 "Văn hóa, văn minh vì sự phát triển và tiến bộ xã hội" do cố giáo sư Nguyễn Hồng Phong làm chủ nhiệm(2). Lịch sử những quá trình hiện đại hóa ở Việt Nam từ cuối t.k.XIX đến nay là một chủ đề quan trọng của công trình.

  • NGUYỄN ĐÌNH CHÍNHThực trạng của phê bình nghệ thuật hiện nay đang là một câu hỏi cần phải được trả lời.

  • THỦY THANHCuộc thi thơ dành cho người tàn tật ở Thừa Thiên Huế mặc dù "thời gian ứng thí" chưa đầy 2 tháng nhưng đã thu được kết quả đáng khích lệ. Với 33 tác phẩm của 7 tác giả nghiệp dư mang khuyết tật trên mình nhưng mỗi con người trong họ vẫn là "một thế giới một tâm hồn" lành lặn.

  • HOÀNG TẤT THẮNGMột trong những đặc điểm đặc thù của tiếng Việt là: các danh từ chỉ sự vật, hiện tượng, trạng thái, tính chất... không phải luôn chỉ đứng một mình mà thường kết hợp với một từ đứng trước với chức năng phân loại, chỉ đơn vị, biểu thái... trong lời nói. Chẳng hạn, sự vật thuyền trong tiếng Việt không phải chỉ có từ "thuyền" mà còn có "cái thuyền", "chiếc thuyền", "con thuyền", "lá thuyền", "mảnh thuyền"... các từ "cái - chiếc - con - lá - mảnh..." thường gọi là từ chỉ loại (hay là loại từ).

  • NGUYỄN THANH HÙNGVăn học thời đại nào cũng là sự du di cái nhìn thấm sâu vào đời sống. Thơ văn nói tới cái thật xa, rồi lại trở về với cái thật gần. Muốn đi xa, hành trang thơ phải gọn nhẹ, nhẹ chữ nhưng nặng lòng. Thơ Thiền là vậy. Mỗi câu thơ như một mũi tên bay vào tưởng tượng. Giữa những dòng thơ Thiền là một cõi chân như, vượt ra ngoài định giới môi trường xã hội quen thuộc, vì thế thơ Thiền thênh thang hướng đạo nhằm mục đích cứu sinh, đưa con người trở về với chính nó.

  • LÊ ĐẠT                Đường bụi trang lịch cũ                 ếp ếp đàn thời gian                                           L.Đ

  • HOÀNG NGỌC HIẾN             (góp phần định nghĩa minh triết)Tôi bắt đầu tiểu luận này bằng những suy nghĩ có liên quan đến chủ đề minh triết của hai học giả Việt Nam: Ngô Thời Sĩ (1740-1786) và Kim Định (1914- 1997).

  • VÕ VĨNH KHUYẾNBa mươi năm, sau khi Bác qua đời (1969 - 1999) có nhiều công trình nghiên cứu, nhiều chuyên luận và khá nhiều bài viết trên các báo, tạp chí trong và ngoài nước về thơ, văn của Bác. Quy mô và mức độ có khác nhau. Tuy vậy, vẫn có chỗ chưa được khảo sát một cách đầy đủ, chưa được đầu tư nghiên cứu một cách thỏa đáng. Trong phạm vi, khả năng cá nhân và nội hàm vấn đề, chúng tôi mạnh dạn trình bày một số suy nghĩ về thơ Bác viết cho thiếu nhi.

  • NGÔ TỰ LẬP(Tiếp theo TCSH số 127/9-99)

  • NGÔ TỰ LẬP1.Platon nói rằng không thể có sự bình đẳng của những kẻ vốn không bình đẳng về mặt năng lực tự nhiên. Đó là xã hội người, nhưng chúng ta cũng có thể nói tương tự như vậy về xã hội từ ngữ.

  • ĐÀO DUY HIỆP    “Hội làng mở giữa mùa thu     Giời cao gió cả giăng như ban ngày”                                            (Nguyễn Bính)

  • YURI BONDAREVTên tuổi của nhà văn Nga Yuri Bônđarép rất gần gũi với bạn đọc Việt Nam qua những tác phẩm nỗi tiếng của ông đã được dịch ở ta vào thập kỷ 80 như: "Các tiểu đoàn xin chi viện", "Tuyết bỏng", "Bến bờ", "Lựa chọn", "Trò chơi"... Là một trong những nhà văn Xô Viết hàng đầu miêu tả hùng hồn và chân thực chủ nghĩa anh hùng cách mạng của quân và dân Liên Xô trong cuộc chiến tranh vệ quốc thần thánh chống phát xít Đức 1941- 1945, Bônđarép đã được phong Anh hùng lao động xã hội chủ nghĩa, được tặng giải thưởng Lênin, các giải thưởng Quốc gia, giải thưởng Lép Tônxtôi và M.Sôlôkhốp, giải thưởng toàn Nga "Xtalingrát"...