Về bài bản nhã nhạc cung đình “Thái Bình Cổ Nhạc”

14:34 14/10/2014

Với mục đích bảo tồn những vốn quí mà cha ông để lại và đặc biệt là sau khi Nhã nhạc được UNESCO công nhận là kiệt tác di sản phi vật thể và truyền khẩu của nhân loại thì Nhã nhạc đã được chú ý hơn, nhưng cái đáng quan tâm hơn hết là vấn đề đi tìm lại những ‘mảnh vỡ” của một số bài bản Nhã nhạc đang lưu lạc ngoài dân gian nhằm mục đích khôi phục để trả nó về với môi trường diễn xướng nguyên thủy là chốn cung đình xưa. Tác phẩm Nhã nhạc “Thái Bình Cổ Nhạc” cũng là một trong những “mảnh vỡ” vừa được lập hồ sơ khoa học và báo cáo. 

“Thái Bình Cổ Nhạc” là một tác phẩm nhạc lễ, nội dung do nhiều phần  ghép lại với nhau, bao gồm: Tam luân cửu chuyển, Giá một, Giá hai, Giá bảy, Giá ký, Quân đại, Quân tiểu và Mở cờ. Mỗi phần là một nội dung hoàn chỉnh và độc lập nên có thể tách rời ra làm thành nhiều bài bản nhỏ riêng biệt. Đây là một tác phẩm Nhã nhạc được các nghệ nhân cung đình sáng tác để phục vụ cho các tế lễ của triều đình. Tuy nhiên, từ sau khi nhà Nguyễn cáo chung, nền nghệ thuật cung đình nói chung và Nhã nhạc nói riêng đã mất đi môi trường diễn xướng, do đó một số bài bản Nhã nhạc đã bị thất truyền và lan tỏa về với dân gian, tác phẩm Nhã nhạc “Thái Bình Cổ Nhạc” cũng nằm trong số đó. Việc sưu tầm, nghiên cứu và lập hồ sơ khoa học về tác phẩm “Thái Bình Cổ Nhạc” sẽ là tiền đề cho việc phục dựng lại tác phẩm này nhằm mục đích bảo tồn và giới thiệu đến du khách trong và ngoài nước.

Theo một số nghệ nhân còn lưu giữ bản tổng phổ “Thái Bình Cổ Nhạc” được viết bằng chữ Hán – Nôm, thì “Thái Bình Cổ Nhạc” là tác phẩm được lưu truyền từ đời này sang đười khác, từ thế hệ này sang thế hệ khác nên nó được đúc kết, hệ thống hóa gần như là hoàn thiện về cấu trúc cũng như nội dung... Nhạc cụ được sử dụng trong “Thái Bình cổ Nhạc” chủ yếu là trống và kèn. Đây là hai nhạc cụ có nguồn gốc từ lâu đời và nó là hai đại diện chủ yếu của dàn Đại nhạc triều Nguyễn. Tác phẩm “Thái Bình Cổ Nhạc” là một tác phẩm có qui mô về trống cổ điển kết hợp với một nhạc cụ khác là kèn. Nếu phân chia một cách cụ thể theo những bản hòa tấu của phương tây thì “Thái Bình Cổ Nhạc” là một bản hòa tấu hoàn chỉnh gồm năm chương, trong đó Tam Luân Cửu Chuyển và các lớp kết hợp ăn khớp, hài hòa với nhau để tạo nên một khối hoàn chỉnh của âm nhạc mà mở đầu là chương I với Tam Luân Cửu chuyển như một lời chào mời trang nghiêm, thành kính bằng lối diễn tấu song song và độc lập của hai nhạc cụ là trống và kèn; chương II có nội dung phong phú hơn bởi sự có mặt của các giá  (Giá Một, Giá Ba, Giá Bảy và Giá Ký); chương III với lớp Quân Đại trang trọng; chương IV là Giá Hai và Quân Tiểu; chương V được kết thúc bằng lớp Mở Cờ trong tiết tấu vui tươi, rộn rã như một phần hội của buổi lễ. Với sự đa dạng, tinh tế  và hoàn thiện như vậy nên “Thái Bình Cổ Nhạc” chắc chắn không phải của một cá nhân sáng tác mà đây là sự sáng tạo kết hợp của một tập thể có tài năng và cùng chuyên tâm phối hợp làm việc với nhau trong suốt một quá trình để nó đi đến độ hoàn thiện.

Có thể nói rằng, “Thái Bình Cổ Nhạc” là một tác phẩm song tấu trống, kèn ở giai đoạn đầu (Tam luân cửu chuyển), ở các giai đoạn sau kèn giữ vai trò làm nền cho trống phô diễn và đặc biệt giai điệu kèn trong “Thái Bình Cổ Nhạc” là một giai điệu được xây dựng phát triển chủ yếu trên thang âm ngũ cung Bắc  (Họ, Xự, Xàng, Xê, Cống). Đây là thang ngũ cung chính thường gặp trong âm nhạc cổ truyền Huế nói chung và trong Âm Nhạc Cung  Đình triều Nguyễn nói riêng. Hơn nữa, theo một số nhà nghiên cứu âm nhạc thì “Thái Bình Cổ Nhạc” là một tác phẩm Nhã nhạc mang đầy đủ tính Âm - Dương mà ở đó các khuôn nhạc không mang tính cứng nhắc, riêng lẽ tách rời mà linh hoạt, đăng đối nhau và hòa quyện vào nhau để tạo nên một tổng thể thống nhất trong Âm có Dương và trong Dương có Âm.

Nếu xâu chuổi lại tiết tấu trong suốt quá trình từ đầu đến cuối khi trình diễn “Thái Bình Cổ Nhạc” ta sẽ thấy, giai điệu kèn là rất bình ổn, ít có bước nhảy đột ngột, tiết tấu cũng không phứt tạp, toàn bài chỉ có hai nhịp ngoại. Tuy nhiên, bên cạnh đó vai trò của các âm tô điểm là rất quan trọng (đây là những nốt nhấn nhá hoa mỹ mà những nhạc công điêu luyện thường hay sử dụng) đối với giai điệu. Chính các âm tô điểm này đã góp phần làm tăng tính chất mềm mại, nhẹ nhàng, uyển chuyển và linh hoạt, nó như thể hiện rõ sự trau chuốt gọt dũa. Đây là những đặt trưng cũng như những kết quả mà phương pháp truyền khẩu mang lại. Ngoài ra, các âm tô điểm thỉnh thoảng còn tạo nên các bước nhảy giúp làm nổi bật tiết tấu của các nhịp mạnh, yếu và củng cố cho kết bài được rõ ràng, trọn vẹn hơn. Và nếu chúng ta lược bỏ tất cả những âm tô điểm thì giai điệu của tác phẩm “Thái Bình Cổ Nhạc” sẽ trở nên khô cứng và mất đi tính uyển chuyển, mềm mại vốn có của nó.  

Thông thường nhạc công đánh trống đều thuận tay phải, nhưng nếu trình diễn “Thái Bình Cổ Nhạc” thì đòi hỏi phải sử dụng luân phiên hai tay một cách đồng đều và thuần thục. Ngoài ra, “Thái Bình Cổ Nhạc” là một tác phẩm hòa tấu, do đó để thể hiện tác phẩm này cần có ít nhất 2 nhạc công sử dụng trống và 2 nhạc công sử dụng kèn trở lên, khi biểu diễn các động tác đánh trống của nhạc công được phô diễn một cách rõ ràng, dễ nhìn thấy. Do đặc điểm này, nên người chơi trống khi thể hiện đòi hỏi phải có sự đồng bộ, rập ràng ăn khớp giữa tiết tấu cũng như động tác. Để có được sự nhịp nhàng đó đòi hỏi các nhạc công khi biểu diễn thì cần phải tuân thủ một số qui định như: Khi đánh không được nhấc roi trống đưa lên cao quá tầm mắt và phải qui ước với nhau nên đánh tay nào trước... Tất cả nhạc công phải đứng ở tư thế nghiêm trang mỗi lần thể hiện “Thái Bình Cổ Nhạc”.    

Hiện nay, Nhã nhạc - Âm nhạc cung đình triều Nguyễn đang còn là một dấu hỏi lớn, một kho tàng bí ẩn mà các nhà nghiên cứu đang còn quan tâm tìm hiểu. Ngoài là một vốn quí của dân tộc, Nhã nhạc còn là một minh chứng điển hình, đại diện cho cho khu vực Đông Nam Á về loại hình âm nhạc cổ xưa còn xót lại. Việc sưu tầm, nghiên cứu “Thái Bình Cổ nhạc”, một tác phẩm đã “Tàng ẩn” một thời gian khá dài trong dân gian sẽ là điểm nhấn cho việc phục hồi nhiều tác phẩm cung đình mà chúng ta vẫn còn chưa biết đến. 

Theo Trọng Bình

(Nguồn TRT)

 

 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • Nhạc: ĐỨC TÙNG
    Thơ:   HẠO NHIÊN

  • LÊ MAI PHƯƠNG  

    Tuồng, loại hình nghệ thuật truyền thống đặc sắc của dân tộc manh nha hình thành từ thế kỷ XIII dưới thời Trần. Tuồng phát triển mạnh vào thế kỷ XVII -XVIII. Sang triều Nguyễn (thế kỷ XIX) Tuồng vẫn giữ vị trí xứng đáng trong đời sống văn hóa ở cung đình cũng như trong dân gian. Sau khi nhà Nguyễn cáo chung, Tuồng cũng mất đi môi trường diễn xướng, hiện nay đang có nguy cơ mai một dần.

  • HOÀNG TRỌNG CƯƠNG 

    Trong một số tài liệu về âm nhạc cung đình của những tác giả tiền bối, cây đàn bầu Việt Nam đã được dự đoán về niên đại ra đời của nó, về sự thăng trầm song hành cùng với chiều dài lịch sử dân tộc.

  • TRẦN VĂN KHÊ

    Từ 10 năm nay Nhã nhạc cung đình Huế được Unesco tôn vinh là một kiệt tác di sản truyền khẩu và phi vật thể của nhân loại, là một danh hiệu rất lớn so với những danh hiệu sau này (Unesco đã bỏ chữ “kiệt tác” và thay thế chữ “của” bằng chữ “đại diện”), vì những lẽ đó mà việc bảo tồn và phát triển nhã nhạc Huế có phần khó khăn.

  • HÀN NHÃ LẠC

    Có lẽ hiện giờ ở Huế, không có ai cảm chơi ca Huế được như nhà văn Bửu Ý. Ông thường nói cái hay của ca Huế, nghe hay đến nhức xương. Và ngay từ khi vợ ông, cô Lợi còn sống, mỗi thứ bảy, gia đình ông lại tổ chức nghe ca Huế nhức xương một buổi.

  • Sau khi triều đình nhà Nguyễn cáo chung, âm nhạc cung đình cũng mất đi môi trường diễn xướng nguyên thủy, do đó loại hình nghệ thuật này đã theo chân các nghệ nhân cung đình lan tỏa về với dân gian, tác động vào nghệ thuật dân gian trên nhiều vùng văn hóa trong cả nước. 

  • TRỌNG BÌNH

    Nghệ thuật Múa Cung đình Huế mang đậm tính triết lý và thẩm mỹ phương Đông. Trong múa cung đình, sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa các động tác múa, sự di chuyển đội hình theo các tuyến, ngang, dọc, xéo cộng với việc tạo hình tượng theo hình khối làm nên nét đặc trưng riêng biệt, điển hình là các điệu: lục cúng hoa đăng, trình tường tập khánh, phụng vũ, tứ linh, vũ phiến, Lục triệt hoa mã đăng...

  • VÕ QUÊ

    Dân tộc Việt Nam do hoàn cảnh địa lý và các điều kiện khách quan khác đã có một nền văn hóa đa dạng, trong đó bộ môn Ca Huế đã tiếp thu, kế thừa và ảnh hưởng nhiều sắc thái, tinh hoa của nhiều vùng đất khác nhau.

  • (SHO) Ca sĩ Hà Thanh vừa mất lúc 7g27 đêm 1-1 (giờ địa phương, tức sáng 2-1 giờ VN) tại TP Boston, tiểu bang Massachusetts (Mỹ) sau thời gian mắc bệnh ung thư máu.

  • LÊ VŨ TRƯỜNG GIANG

    Văn Giảng, con người của những nốt nhạc mơ mộng chân nhiên nơi miền non nước Hương Bình đã dấn thân trong miền giao cảm của nước, của sông, của tiếng chuông chùa ngân vọng để viết nên những ca khúc bất hủ Ai về sông Tương, Đôi mắt huyền, Từ Đàm quê hương tôi... tô vẻ thêm cho tiếng lòng vùng đất Cố đô.

  • NGUYỄN VĂN DŨNG

    Ở Huế có câu hò nổi tiếng tới mức không người Huế nào không được nghe, không du khách nào không từng một lần thưởng thức:

  • NGUYỄN TẤN TÔN NỮ Ý NHI

    Theo dòng chảy của lịch sử, Ca Huế giờ đây không còn là sản phẩm phục vụ riêng cho một tầng lớp nhất định trong xã hội: giới quý tộc. Cùng với xu hướng xã hội hóa, hiện nay loại hình nghệ thuật này nghiễm nhiên gần gũi hơn với công chúng Huế nói riêng và du khách thập phương nói chung.

  • TRỌNG BÌNH - QUÝ CÁT  

    Nền âm nhạc cổ truyền nói chung và Âm nhạc cung đình Việt Nam nói riêng từ xa xưa đã có một kiểu chữ nhạc riêng dùng để ký âm, ghi chép thành văn bản tất cả các bài bản để lưu truyền qua nhiều thế hệ...

  • HỒ THẾ HÀ

    Năm con rồng Nhâm Thìn (2012), Mai Xuân Hòa tròn 82 tuổi đời và nếu tính từ ngày anh tham gia học lớp âm nhạc ngắn hạn đầu tiên năm 1956, trước khi chính thức học ở trường Âm nhạc Việt Nam (1958 - 1962) thì anh đã có 56 tuổi nghề âm nhạc.

  • DƯƠNG BÍCH HÀ

    Huế - theo dòng chảy của thời gian, đã trải qua bao biến cố, thăng trầm của lịch sử; âm nhạc Huế cũng không nằm ngoài “luồng” của dòng chảy đó.

  • MAI XUÂN HÒA (Thơ: Nguyễn Tất Thịnh)

    Phải chăng em là gió/ phải chăng em là mây/ Gió nghiêng chao nhè nhẹ/ mây bồng bềnh bay bay…

  • Hưởng ứng cuộc vận động sáng tác Văn học Nghệ thuật hướng về thiên tai với chủ đề “Nguyện cầu cho nạn nhân động đất tại Nhật Bản”.

  • Hưởng ứng cuộc vận động sáng tác Văn học Nghệ thuật hướng về thiên tai với chủ đề “Nguyện cầu cho nạn nhân động đất tại Nhật Bản” do Liên hiệp các Hội Văn học Nghệ thuật Thừa Thiên Huế tổ chức.

  • Hưởng ứng cuộc vận động sáng tác Văn học Nghệ thuật hướng về thiên tai với chủ đề “Nguyện cầu cho nạn nhân động đất tại Nhật Bản” do Liên hiệp các Hội Văn học Nghệ thuật Thừa Thiên Huế tổ chức.

  • Hưởng ứng cuộc vận động sáng tác Văn học Nghệ thuật hướng về thiên tai với chủ đề “Nguyện cầu cho nạn nhân động đất tại Nhật Bản” do Liên hiệp các Hội Văn học Nghệ thuật Thừa Thiên Huế tổ chức.