Vang mãi Tuyên ngôn độc lập

09:59 08/04/2009
TÔ VĨNH HÀTrong lịch sử loài người, có những bức tranh, những pho tượng lấp lánh toả ánh hào quang lặng im của chúng trong sự lâu bền của năm tháng. Có những ký ức có thể thi gan cùng vĩnh cửu. Nhưng có lẽ, ngôn từ có sức mạnh riêng mà không một thách thức nào, dù là của không gian hay thời gian có thể làm nhạt nhoà những âm vang của nó. Tất nhiên, một khi nó đã đi vào trái tim và khối óc của con người. 1034 chữ của bản Tuyên Ngôn Độc Lập của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà là một trong những áng ngôn từ có sức sống bền vững với thời gian như thế.


1.
Nhìn trên bản đồ, hình thể nước Việt dường như cứ phải uốn cong trước sức nặng của tảng đá khổng lồ là mảng lục địa phương Bắc. Hàng ngàn năm, dải đất hình chữ S cứ xoắn lại trong vất vả và nghiệt ngã nhưng không thể gục gãy, không khuất phục bao giờ. Mảnh như một nhành hoa, gầy khô như là nét vẽ, khắc khổ như một tiếng thở dài nhưng dáng vươn bật của chiếc lò xo phi thường ấy luôn ẩn chứa một nội sức vĩ tuyệt kiêu hãnh đến không ngờ. Hàng ngàn năm chịu đựng muôn vàn lưỡi dao mưu toan đồng hoá, tấm thân Việt vẫn nguyên lành khí phách của cha ông. Những cánh đồng chua đất mặn quanh năm bão, lũ ngập tràn không thể ngăn được sự bền bỉ vươn lên của mỗi con người.

Chính vì thế, năm 1858, khi tiếng súng xâm lăng của thực dân làm dậy sóng sông Hàn, con sông nhỏ đã trở mình nóng bỏng. Nhưng sự oái oăm của số phận một lần nữa lại bắt dân Việt phải đương đầu với thử thách khó khăn: Kẻ thù mới so với chúng ta không chỉ chênh lệch về vũ khí, phương tiện mà chúng còn đại diện cho cả một phương thức sản xuất mới đang bành trướng toàn cầu. Sự thất bại đã được báo trước: 101 nước châu Á và châu Phi, không một nước nào thoát khỏi ách nô dịch, trừ Nhật Bản đã khôn ngoan tránh được chiến tranh. Sự an ủi từ một trăm dân tộc đồng cảnh ngộ là không đủ. Cuộc đấu tranh mới phải được bắt đầu.

Nhiều vạn con người đã anh dũng ngã xuống. Mảnh đất đau thương bị vùi dập đến ê chề. Sự bất lực về con đường và phương hướng đã làm cho mọi ngọn sóng căm thù của nhân dân ta đều bị vỡ tan thành những bụi sóng xót xa. Cho đến một ngày... Con sông Sài Gòn tím biếc trong màn sương chờ đợi để ủ chín cơn quẫy mình khao khát từ bến Cảng - ngôi Nhà sinh hạ giống tiên Rồng.

Nguyễn Tất Thành rời xa Tổ quốc với ước vọng như chính tên anh: một con đường chắc chắn sẽ dẫn tìm đích đến bởi cha ông đã tủi nhục quá lâu rồi. Năm 1911 là năm mà cuộc Cách mạng Tân Hợi thành công. Nhưng Nguyễn không tìm đến một sự cứu giúp. Nguyễn muốn anh và cả dân tộc phải tự mình.

2. Chắc hẳn đó là phần không thể thiếu khi nhắc đến bối cảnh xa để làm nên bản Tuyên ngôn bất hủ. 80 năm khổ đau của dân tộc như quyện chặt vào 34 năm gian khó của Nguyễn Ái Quốc để những lời tâm huyết của Hồ Chí Minh vang vọng mãi lòng người. Bản Tuyên ngôn khẳng định sự thật bằng những tiếng thiêng liêng rực cháy từ hồn sông núi: Một dân tộc đã gan góc chống ách nô lệ của Pháp hơn 80 năm nay, một dân tộc đã gan góc đứng về phe Đồng Minh chống phát xít mấy năm nay, dân tộc đó phải được tự do! Dân tộc đó phải được độc lập!

Tuyên Ngôn Độc Lập có sự kết hợp lạ kỳ của ngôn ngữ Đông - Tây. Những từ như dân cày và dân buôn; các nhà tư sản ta; công nhân ta; dân ta... đứng gần như đẳng lập với các cụm từ mà tính rõ nghĩa như trong luật pháp của chúng khẳng định dứt khoát rằng dân tộc Việt Nam biết rất rõ lẽ phảisự thật của mình; rằng Sự thật là dân ta lấy lại nước Việt Nam từ tay Nhật, chứ không phải từ tay Pháp. Chính vì thế, những ai đã công nhận những nguyên tắc của hội nghị Tehran và Cựu Kim Sơn (Sanfranscisco) quyết không thể không công nhận quyền độc lập của dân Việt Nam (tác giả nhấn mạnh). Chúng ta biết chắc rằng, với hơn 90 % dân số mù chữ, nhân dân ta hầu như chưa bao giờ làm quen với cách tạo câu theo dạng phủ định của phủ định đanh thép ấy.

Những câu như thế hoặc gần như thế không nhiều, chỉ có ở 16 câu trong tổng số 46 câu của 32 đoạn văn. Điều đó thật nhiều ý nghĩa. Nó cho biết rất rõ rằng Hồ Chí Minh không chỉ là một nhà cách mạng xuất sắc mà còn là một nhà ngoại giao tài giỏi. Rất đáng lưu ý đây là thời điểm thế giới rất cần những nhà ngoại giao như thế, bởi chiến tranh vừa kết thúc.

3. Bản Tuyên ngôn muốn nói đến thật nhiều điều qua hơn một ngàn từ ngắn ngủi. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định rằng nước Việt Nam mới chỉ xoá bỏ tất cả mọi đặc quyền của Pháp chứ không phải xoá bỏ tất thảy mọi quyền lợi; rằng chúng ta thoát ly hẳn quan hệ thực dân với Pháp chứ không phải thoát ly tất cả. Đất nước ta chỉ mới có quyền độc lập, quyền tự do chứ chưa phải là nền độc lập, tự do vì chúng ta chưa tổ chức Tổng tuyển cử. Người còn muốn nhắn nhủ rằng hai điều đáng lo nhất từ phía các kẻ thù là chúng luôn ngăn cản việc thống nhất nước nhà của ta,... ngăn cản dân tộc ta đoàn kết. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dịch thật hay câu mở đầu của Tuyên ngôn Độc lập Mỹ: Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng (tôi nhấn mạnh-TVH). Nguyên văn: Tất cả mọi người đều được sáng tạo ra (bởi Đấng Sáng Tạo) bình đẳng (Every men was created equal). Có lẽ đã không hề ngẫu nhiên khi trong bản Tuyên ngôn, Hồ chủ tịch đã nhắc đến dân cày, dân buôn, tư sản, công nhân theo đúng một trình tự cần thiết của hoàn cảnh ấy? Ai cũng biết rất rõ thang bậc hàng ngàn năm của trật tự cũ là sĩ, nông, công, thương. Sự tuyệt vời của Bản Tuyên ngôn có thể tìm thấy ở ngay một chi tiết rất nhỏ: Ở câu 38, Tuyên ngôn viết rằng Bởi thế cho nên, chúng tôi, Lâm thời chính phủ của nước Việt Nam mới...; còn ở câu 46 là Vì những lẽ trên, chúng tôi, Chính phủ lâm thời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà trịnh trọng tuyên bố rằng... Thật rõ ràng là cách ngắt câu, cách đảo ngôi chủ - vị của từ lâm thời là cả một tuyệt bút dẫu chỉ có hai từ giản dị mà thôi.

60 năm đã trôi qua kể từ buổi sáng Ba Đình lộng lẫy sắc đỏ tự hào và rực rỡ ánh nắng vàng tươi mới ấy, ta vẫn như còn nghe thấy những âm thanh chưa có bao giờ của một cuộc đổi đời lịch sử. Bước chân của Nguyễn Tất Thành lớn dậy cùng dân tộc để cho muôn đời nối bước theo Người. Giọng nói thiêng liêng của Người khi đọc Tuyên Ngôn Độc Lập sẽ vang vọng mãi đến ngàn sau. Bây giờ, chắc chắn mỗi chúng ta đã hiểu rõ vì sao dân tộc ta có thể vượt qua chừng ấy khó khăn từ hai cuộc kháng chiến trường kỳ. Chính từ Bản Tuyên ngôn lịch sử, Hồ Chủ tịch đã khẳng định chân lý tuyệt vời: Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã trở thành một nước tự do độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy.

Quy Nhơn, 17/8/2005
T.V.H
(199/09-05)

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • NGUYỄN HỮU NHÀN                     Ghi chép Ngày nay đồng bào cả nước nô nức về Phú Thọ để tưởng niệm Vua Hùng. Theo sử sách cổ của Trung Hoa thì ông Vua Hùng chính là người Lạc Việt có nhiều pháp thuật, quyền năng phục được các bộ lạc, làm thủ lĩnh mà xưng là Hùng Vương (1).

  • TRẦN CHINH VŨChỉ mấy ngày nữa là hết năm, vậy mà tôi vẫn chưa rời khỏi đất Tây Nguyên. Cái vùng đất đến lạ, tới được đã khó, đến lúc về lại cứ lần lữa, hết hẹn này qua hẹn khác.

  • HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNG                                     Bút kýMỗi dân tộc đều có một quan niệm về sắc đẹp riêng, ví dụ tranh Tố Nữ là quan niệm về sắc đẹp của người Việt một thời nào. Tôi đi Tuyên Quang trong một tour du lịch mà tôi gọi là tour Lương Tâm, nghĩa là đến những nơi mà bất cứ ai là người Việt đều không thể không đến.

  • HỒ VĨNH(Thấp thoáng cố đô)

  • NGUYỄN VĂN DŨNG                        Bút kýMùa hè năm 1965, tôi nhận sứ vụ lệnh về dạy học ở trường Trần Quốc Tuấn - Quảng Ngãi. Biết tôi thích ngao du sơn thuỷ, đám đệ tử thân thiết khao thầy một chầu du ngoạn Lý Sơn.

  • NGUYỄN THỊ SỬU1. Thời gian là thước đo sự tồn tại của vạn vật trong vũ trụ bao la. Vạn vật luôn chuyển động và biến đổi không ngừng theo thời gian. Với người Ta Ôi, thời gian được tri nhận rõ nhất qua sự chuyển động và biến đổi của con trăng.

  • ĐẶNG VIỆT BÍCHGần đây các nhà khảo cổ học nước ta đã phát hiện ra nhiều di tích quan trọng của một nền văn hóa chịu ảnh hưởng sâu sắc của Ấn Độ giáo tại Cát Tiên, ở cả Bắc Cát Tiên lẫn Nam Cát Tiên trên vùng Đồng Nai Thượng.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊ                     Ghi chépChúng tôi rời thị xã Điện Biên đã nhiều ngày và những hoạt động sôi nổi kỷ niệm 45 năm chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ đã qua, nhưng những ấn tượng trong thời gian ở Điện Biên thì mãi còn đậm nét trong tôi.

  • VĂN HÁCHĐã bốn thập kỷ qua, nhiều thế hệ học sinh, nhiều thế hệ người Việt ta và cũng nhiều người trên thế giới đã từng quen, từng biết câu thơ:Mường Thanh, Hồng Cúm Him LamHoa mơ lại trắng vườn cam lại vàng…

  • NGUYỄN HỮU NHÀNTương truyền đức Thánh Mẫu (mẹ Thánh Tản Viên) là người làng Yên Sơn. Chồng bà là người vùng biển. Họ dựng nhà, sống ở ngay dưới chân núi Thụ Tinh ngày nay gọi chệch là núi Thu Tinh. Một lần bà đi qua đồng Móng làng Tất Thắng ướm chân vào hòn đá to rồi về thụ thai ba năm mới sinh nở. Vì thế khi đang bụng mang dạ chửa bà đã bị dân làng đồn đại tiếng xấu về sự chửa hoang. Chồng bà nghi ngờ rồi bỏ vợ, về quê ở miền biển sinh sống.

  • DƯƠNG PHƯỚC THUChỉ hai ngày sau khi nước rút, tôi lại chạy về huyện Phú Vang. Nắng vàng sau lụt, vào tiết lập Đông oi nồng như đổ lửa. Con đường nhựa từ Huế về biển Thuận An bị bùn, đất, cát phủ dầy hàng gang tấc có đoạn lên cao cả thước, xe chạy người chạy vội vã cuốn bụi tung mù trời, hai bên lề đường ngấm nước lũ được đánh dấu bằng rác rều cỏ cây đeo bám vật vờ cao qúa đầu người. Mùi bùn non, rong rêu, xác chết gia súc gia cầm tấp vào, mùi ủng mục của lúa gạo ngấm nước bạc bốc lên tanh hôi khó chịu.

  • YÊN CHÂUQuảng Điền là một trong những huyện bị lũ lụt nặng nhất Thừa Thiên.Có thể kể ra đây mấy con số: 42 người chết, 13.000 tấn lúa bị thối, 3078 con trâu bò bị chết, 34 cây số đê bị vỡ.

  • NGUYỄN THỊ SỬU Cư trú trên dãy núi Trường Sơn kéo dài từ Thừa Thiên Huế đến Quảng Trị của lãnh thổ nước ta, dân số Ta-Ôi chỉ 34.960 người (theo Tổng điều tra dân số 1/4/1999) và ít được biết đến. Nhưng khi đi sâu vào đời sống văn hóa, chúng ta mới thấy sự kỳ thú, kỳ vĩ của dân tộc này. Với tư cách là một thành viên bản địa của cộng đồng tộc người Ta-Ôi và sau một chuyến khảo sát điền dã khắp 21 xã, thị trấn của huyện A Lưới, Thừa Thiên Huế, chúng tôi phát hiện ra một nét văn hóa đặc sắc có tính truyền thống của dân tộc Ta-Ôi. Đó là Trách nhiệm cộng đồng.

  • HOÀNG CÁTVới riêng tôi, thì những cái địa danh bình thường, thuộc nông thôn vùng sâu, vùng xa của tỉnh Thừa Thiên Huế như: Triều Dương, Cao Xá, Quảng Thái, Phong Chương, Phù Lai, An Lỗ, Đồng Lâm, Phong Sơn, xóm Khoai, xóm Mắc vv… từ lâu đã trở thành một phần máu thịt của tâm hồn mình, của ký ức mình; chưa bao giờ - và sẽ không bao giờ - tôi nguôi quên cho được.

  • NGÔ MINH             Ghi chép

  • NGUYỄN THANH TÚ                          Bút ký Bến phà Xuân Sơn nằm trên dòng sông Son thơ mộng ở đoạn thượng nguồn. Từ đây đi bằng thuyền máy khoảng nửa giờ đồng hồ ngược lên phía tây sẽ đến động Phong Nha. Anh Lê Chiêu Nguyên cán bộ hướng dẫn của Trung tâm du lịch văn hóa sinh thái Phong Nha - Kẻ Bàng đã nói như vậy khi đoàn chúng tôi chuẩn bị lên thuyền làm cuộc hành trình tới hang động mà UNESCO vừa công nhận là Di sản thiên nhiên thế giới.

  • NGUYỄN THẾTừ Huế, muốn đến khu nước khoáng nóng Thanh Tân, ta cứ theo Quốc lộ I ra phía Bắc, đi khoảng 20 km, tới cầu An Lỗ; qua cầu, rẽ trái theo tỉnh lộ 11, đi khoảng 12 km là đến. Còn nếu đi từ hướng Quảng Trị vào, đến km 26, rẽ phải vào cổng làng Đông Lâm thẳng theo con đường trải nhựa khoảng 7 km, gặp tỉnh lộ 11, rồi rẽ trái 1km.

  • NGUYỄN QUANG HÀ                       Ghi chépNói đến Vĩnh Linh, không ai không nhớ hai câu thơ đầy hãnh diện của Bác Hồ tặng cho mảnh đất này:                “Đánh cho giặc Mỹ tan tành                Năm châu khen ngợi Vĩnh Linh anh hùng”

  • …Chưa bao giờ các văn nghệ sĩ Huế lại tranh thủ “đi” như ở Trại viết này. Không chỉ “săn” cảnh đẹp, người đẹp, các anh còn chú trọng hơn những nét đẹp trong lao động sản xuất của người dân Bà Rịa-Vũng Tàu…

  • NGUYỄN XUÂN HOÀNG                                Bút ký...Bảy trăm năm trở về với Đại Việt, lịch sử đèo Hải Vân đã dày lên cùng với lịch sử nước Việt. Đó là những trang sách được viết bằng mồ hôi, máu và số phận của cả một dân tộc. Ngày Huyền Trân đi qua cửa Tư Dung (Tư Hiền ngày nay), nàng đã nhìn thấy gì nếu không phải là con ngựa trắng tung bờm lao ra biển đông, và đèo Hải Vân cao mịt mùng đã lặng lẽ đưa một Chiêu Quân vì nước non ngàn dặm ra đi. Cuộc vu qui nhiều nước mắt ấy theo tôi là trang sử đầu tiên của đèo Hải Vân. Để sau đó nơi hiểm trở này đã tiễn chân Cao Bá Quát, cái ngày ông đi giang hồ rèn chí, con chim hồng quì chân uống nước sông Trà mà vọng về phương Bắc lòng tha thiết nhớ quê...