Nhiều hiện tượng văn học miền Nam trước 1975 thực ra đã đến với độc giả miền Bắc từ rất sớm, bằng những cách thức và con đường khác nhau...
Bộ tiểu thuyết 5 cuốn của nhà văn Nguyễn Thị Hoàng vừa được phát hành.
Cùng với lĩnh vực nghiên cứu - phê bình, sự trở lại của văn học đô thị miền Nam giai đoạn 1954 - 1975 ở lĩnh vực xuất bản trong những năm gần đây là một tất yếu sau gần nửa thế kỷ đất nước thống nhất. Những cái tên như: Bùi Giáng, Bình Nguyên Lộc, Nguyên Sa, Mai Thảo, Dương Nghiễm Mậu, Trang Thế Hy, Sơn Nam, Tô Thùy Yên, Thanh Tâm Tuyền, Du Tử Lê, Võ Phiến, Nguyễn Thị NgH, Nguyễn Thị Thụy Vũ… và gần đây nhất là trường hợp Nguyễn Thị Hoàng đã/đang dần trở nên quen thuộc hơn với độc giả ở những không gian tiếp nhận khác, nhờ sự tái xuất bản và xuất hiện của các tác phẩm, cũng như sự đề cập hoặc gợi nhắc ở nhiều bài viết, công trình nghiên cứu về bộ phận văn học này, trong đó có cả những công trình văn học sử. Đây là một tín hiệu tích cực và đáng mừng, bởi nó dự báo một tương lai không xa, bức tranh văn học Việt Nam thế kỷ XX, nhờ thế, sẽ trở nên đa dạng, đủ đầy hơn trong một tinh thần học thuật, sáng tạo thuần khiết và mong muốn hướng tới một nền văn chương đa dạng, giàu giá trị nhân văn, nhân bản và dân chủ của dân tộc.
Theo TS Mai Anh Tuấn, việc đọc, thẩm định tác phẩm của nhiều gương mặt quan trọng làm nên diện mạo văn học đô thị miền Nam trong vòng 20 năm qua như: Bùi Giáng, Bình Nguyên Lộc, Nguyên Sa, Dương Nghiễm Mậu, Sơn Nam, Trang Thế Hy, Tràng Thiên, Trần Thị NgH, Nguyễn Thị Thụy Vũ… đang dần đi vào bài bản, trong đó các công bố chính thức dưới dạng chuyên khảo hay tiểu luận của Trần Hoài Anh, Huỳnh Như Phương, Nguyễn Mạnh Tiến, Đỗ Lai Thúy, Nguyễn Thị Việt Nga, Nguyễn Bá Thành... đóng vai trò như là chỉ dẫn bước đầu. Bên cạnh đó, sự xuất hiện một khối lượng phong phú báo chí văn chương miền Nam và các tác phẩm khảo cứu, dịch thuật của Nguyễn Hiến Lê, Phạm Thế Ngũ, Thanh Lãng, Nguyễn Văn Trung, Vũ Đình Lưu, Trần Thái Đỉnh, Nguyễn Duy Cần, Phan Khoang, Kim Định, Nguyễn Thế Anh, Tạ Chí Đại Trường… cũng là tín hiệu khả quan về một tương lai đủ đầy của bức tranh văn học Việt Nam thế kỷ XX đặt trong tổng thể văn hóa và giá trị dân tộc hài hòa. Tuy nhiên, thực tế và những động thái tái dựng văn học đô thị miền Nam như trên chưa thể coi là đầy đủ và có tính hệ thống, đòi hỏi tiếp tục cần có nhiều tiếng nói cộng hưởng cùng nghiên cứu dài hơi, quy mô, bài bản hơn…
Là một trong những người quan tâm và sớm có nghiên cứu về văn học miền Nam 1954 - 1975 từ những năm đầu thập niên 90 của thế kỷ trước, nhà phê bình văn học Phạm Xuân Nguyên cho rằng: việc tái phục dựng, trở lại của văn học miền Nam 1954 - 1975 là một tất yếu khách quan, đáp ứng đòi hỏi của khoa học và cả câu chuyện của lương tâm, đạo đức, bất chấp rào cản và ngăn trở của định kiến xã hội. Trên thực tế, cách nhìn nhận, đánh giá về một số hiện tượng văn học này gần đây đã trở nên rộng mở, khách quan hơn.
Đánh giá về một số hiện tượng văn học xuất hiện trong không gian đô thị miền Nam nhìn từ tương quan xã hội, trong đó có nhà văn Nguyễn Thị Hoàng và tiểu thuyết “Vòng tay học trò”, nhà nghiên cứu Lại Nguyên Ân gợi dẫn khái niệm về “nền văn học tồn tại trong một xã hội dân sự” dựa trên tiêu chí: sự gắn bó, tương tác công khai, tự nguyện giữa tác giả và độc giả, giữa hoạt động sáng tạo và hoạt động tiếp nhận mà không chịu bất kỳ sự áp đặt hay mệnh lệnh hành chính nào. Đối với các hiện tượng văn học miền Nam 1954 - 1975, ông cho rằng cần có cái nhìn, cách đánh giá cởi mở hơn để bộ phận văn học này có thể trở lại một cách bình thường trong tiếp nhận của công chúng.
PGS.TS La Khắc Hòa khẳng định: nhiệm vụ của các nhà xuất bản là làm thế nào để đưa những tác phẩm/hiện tượng văn học từng bị lãng quên trở lại với độc giả; còn nhiệm vụ của giới nghiên cứu, phê bình là phải đánh giá đúng vị trí của các hiện tượng văn học đó trong dòng chảy của lịch sử văn học. Ông cũng cảnh báo về nguy cơ “ngôn ngữ thao túng ý thức”, dẫn tới những khuyết thiếu, thậm chí cách hiểu sai lệch về các hiện tượng văn học từ chính cách gọi tên/định danh theo vùng miền hoặc theo ý thức hệ. Vì vậy, muốn viết đúng, viết đủ về văn học sử, cần/nên tìm cách phân chia văn học theo loại hình.
Trong quan sát rộng dài từ góc nhìn tiếp nhận, TS Trần Ngọc Hiếu cho rằng: nhiều hiện tượng văn học miền Nam trước 1975 thực ra đã đến với độc giả miền Bắc từ rất sớm, bằng những cách thức và con đường khác nhau.
Từ trường hợp Nguyễn Thị Hoàng, nhà phê bình Ngô Thảo khái quát hành trình “trở về” của văn học miền Nam từ 1975 tới nay theo “quy luật của lòng nhân ái”, ở đó thời gian đã đủ dài và chúng ta đã đủ bình tâm để hàn gắn vết thương, những chia rẽ hay hiểu nhầm của quá khứ. Đối với văn chương hay nhìn rộng hơn là với đời sống tinh thần xã hội, đó đều là việc đáng mừng.
Nhà văn Nguyễn Thị Hoàng chia sẻ, khi viết, bà luôn trong tâm thế/tư thế “đứng riêng lẻ”, “không thuộc về ai hay về một phe phái nào” mà là ở giữa “mênh mông trời đất”, với tất cả sự đơn độc cùng ước vọng xóa nhòa ranh giới của những rào cản, sự bất thông, chia rẽ, hiểu lầm giữa con người với con người. Chỉ có như vậy mới có thể tồn tại, vượt qua tất cả mọi ngăn chia, cách biệt, để cùng nhau làm được một điều gì đó thật ý nghĩa cho cuộc đời, cho các thế hệ mai sau. Việc chọn cách im lặng hay tiếp tục xuất hiện trong đời sống cũng như trong sáng tác với bà, vì thế, hoàn toàn là lựa chọn cá nhân, là những trải nghiệm cần thiết và quý giá với một người viết...
Trong một chia sẻ của mình về “Sự trở lại của những nhà văn nữ vang bóng”, nhà thơ Từ Kế Tường từng khẳng định: “Dòng chảy văn học cũng như con sông lớn có bản sắc vùng miền, mặn, ngọt của vị phù sa châu thổ nơi ấy. Chúng đều có ngóc ngách và hứng chịu nắng mưa giông bão… để rồi đổ ra biển cả. Một nền văn hóa giống như đại dương phải biết dung nạp, tổng hòa những đặc trưng làm thành nguồn nước. Văn chương mang sắc thái riêng thì mới có màu sắc lấp lánh. Vì vậy không lý gì chúng ta không hội nhập với chính chúng ta…”.
Khách quan mà nói, có thể thấy độ lùi thời gian đã khiến những rào cản tâm thế và những cách ngăn của quá khứ với hiện tại dần được dỡ bỏ...
Hội Nhà văn Việt Nam được chính thức thành lập từ năm 1957, sau Hội nghị thành lập Hội diễn ra tại trụ sở Câu lạc bộ Đoàn Kết, từ 1/4 đến 4/4/1957. Trong lịch sử văn học Việt Nam thời hiện đại đây là lần đầu tiên có một tổ chức của những người lao động văn học trên toàn quốc.
Tái hiện bức tranh Hà Nội thời bao cấp, rồi từ đó đi tìm cái chất nhân văn thuần nhất trong đời sống con người, “Chuyện ngõ nghèo” là cuốn tiểu thuyết đánh dấu sự trở lại của Nhà văn Nguyễn Xuân Khánh năm 2017 sau một loạt các tiểu thuyết đình đám như: Mẫu Thượng Ngàn, Hồ Quý Ly, Đội gạo lên chùa…
1. “Thiện, Ác và Smartphone” là tập tiểu luận thứ hai của Đặng Hoàng Giang, sau “Bức xúc không làm ta vô can” - cuốn sách ra mắt năm 2015 và gây được tiếng vang rộng rãi.
Nhân chuyến trở lại Việt Nam truyền giảng phật pháp, ngày 4-4, Tiến sĩ Phật học Khangser Rinpoche đến từ Ấn Độ đã dành nhiều thời gian giao lưu cùng bạn đọc tại TPHCM.
Nguyễn Trí được biết đến vào năm 2013 khi tác phẩm Bãi vàng, đá quý trầm hương (NXB Trẻ) đoạt giải thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam. “Sự nghiệp” cầm bút của Nguyễn Trí đến nay mới chỉ 5 năm nhưng ông đã có 9 cuốn sách truyện dài, truyện ngắn ra đời.
Phan Việt vừa có buổi giao lưu về tác phẩm mới nhất, cũng là tác phẩm chị cho là quan trọng nhất trong bộ ba "Bất hạnh là một tài sản" của mình.
Sáng 21-3, tại trụ sở Hội Nhà văn TPHCM, đã diễn ra buổi ra mắt tập tiểu luận, phê bình Nhà văn Lê Văn Thảo trong lòng đồng nghiệp do Hội Nhà văn TP thực hiện (NXB Hội Nhà văn xuất bản).
Nhà sách Trí Việt cho biết sau gần 3 năm thực hiện với 6 lần chỉnh sửa, Hội đồng thẩm định cuốn sách “Gạc Ma - Vòng tròn bất tử” do Ban Tuyên giáo TƯ thành lập đã đồng ý cho phép xuất bản cuốn sách này.
Lịch sử phát triển của hệ thống thể loại báo chí cho thấy Bút ký chính luận giữ một vai trò quan trọng trong việc định hướng xã hội. Nó là thể loại không thể thiếu trong việc giáo dục tư tưởng, chính trị cho quần chúng. Trong một thế giới đương đại, trong một xã hội bùng nổ thông tin với nhiều biến động, Bút ký chính luận càng trở nên quan trọng và cần thiết cho đời sống.
Ngày 4 và 5/1, Ban chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam tiến hành họp để bình chọn bảy tác phẩm xuất sắc của làng viết năm qua. Kết quả được công bố hôm 10/1.
Nghiên cứu công phu, tư liệu chính xác, văn phong mạch lạc và giàu cảm xúc, tác phẩm Văn chương phương Nam - một vài bổ khuyết của hai tác giả Võ Văn Nhơn và Nguyễn Thị Phương Thúy không chỉ khiêm tốn “bổ khuyết” mà là công trình giàu tâm huyết với những khám phá ngạc nhiên mới lạ rất hữu ích.
Nói về cuốn sách phê bình văn học Giăng lưới bắt chim của mình, Nguyễn Huy Thiệp hay nhắc lại điều thoạt tiên tưởng rằng ông "lấp lửng": tôi viết có đúng có sai, có chính xác có nhầm lẫn, viết khi mình "đang còn nửa mê nửa tỉnh".
Có một thực tế là rất nhiều người song hành giữa việc viết văn và viết báo. Xét về góc độ thể loại thì văn học và báo chí là hai thể loại khác nhau nhưng giữa chúng lại có sự tương đồng với nhau về nhiều khía cạnh. Vì thế việc song hành giữa văn chương và báo chí là điểu dễ hiểu.
hông biết đã đến đáy chưa thảm trạng tác giả (khoa học và nghệ thuật) bị xâm hại trắng trợn về bản quyền như hai công trình về dân tộc học của GS.Từ Chi, và về sử học của GS.Trần Quốc Vượng. Hai tác giả có tên tuổi đã quá cố, và những nhà xuất bản gây nên sự cố, làm méo mó, biến dạng đứa con tinh thần của họ lại là những nhà xuất bản có những cái tên rất sang, là cơ quan ngôn luận của những cái hội nghề nghiệp lẽ ra phải rất nghiêm chỉnh, đứng đắn trước công luận. Các cơ quan truyền thông đã lên tiếng. Không biết gia đình, thân nhân của hai tác giả có ý kiến gì không? Ta đã có lệ luật gì về những vụ việc như vậy, để đưa ra tòa án dư luận?
Chiều 7.10, Hội đồng giám khảo giải thưởng Hội Nhà văn Hà Nội gồm các nhà văn, nhà thơ: Bằng Việt, Nguyễn Việt Chiến, Phạm Xuân Nguyên, Bùi Việt Mỹ, Nguyễn Sĩ Đại, Lê Minh Khuê, Đoàn Tử Huyến, Nguyễn Đăng Điệp, Nguyễn Thành Phong đã họp phiên chung khảo.
Ngày 4/10, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang đã đến dự và phát biểu tại Hội thảo khoa học toàn quốc “Văn học, nghệ thuật với việc xây dựng nhân cách con người Việt Nam” do Hội đồng Lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật Trung ương tổ chức tại Thành phố Hồ Chí Minh.
Tác phẩm văn xuôi, trong đó có truyện ngắn xuất hiện trên báo chí đã trở thành món ăn tinh thần nhiều năm nay cho độc giả. Tuy nhiên, dường như món ăn tinh thần này đang ngày càng có xu hướng bị co lại, bị thay thế.
Sáng tạo văn học nghệ thuật về đề tài chiến tranh, cách mạng thời gian qua đã có nhiều đổi mới và được giới chuyên môn ghi nhận.
Viết về cuộc Cách mạng mùa Thu 70 năm về trước, nhà văn Nguyễn Đình Thi - người can dự, đồng thời là chứng nhân của cuộc cách mạng vĩ đại đó (Năm1945 ông dự Hội nghị Quốc dân Tân Trào và được cử vào Ủy ban Giải phóng dân tộc; sau đó được bầu làm Đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa I là Ủy viên thường trực) đã ví nó giống như “một cuộc lột vỏ”, “rũ bùn” đứng lên của con người, của dân tộc Việt Nam: Súng nổ rung trời giận dữ/ Người lên như nước vỡ bờ/ Nước Việt Nam từ máu lửa/ Rũ bùn đứng dậy sáng lòa (Đất nước).
Sau gần 30 năm thực hiện đường lối đổi mới về văn hóa văn nghệ được đề ra trong Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng Cộng sản Việt Nam (tháng 12/1986), văn học Việt Nam đã có nhiều bước chuyển sâu sắc, đạt nhiều thành tựu đáng kể trên tất cả các thể loại, góp phần quan trọng vào việc xây dựng nền tảng văn hóa, tinh thần của con người và xã hội.