TRẦN BĂNG KHUÊ
Với văn chương, tôi không biết phải nói về nó như thế nào, về việc bén duyên, hay hoàn cảnh thôi thúc tôi đến với nó. Những ý niệm này, có đôi lần tôi đã lẩn thẩn nghĩ đến, thỉnh thoảng băn khoăn một chút, rồi thì mọi sự dường như diễn tiến theo một cách nào đó tôi cũng không nắm bắt được nữa. Tự nhiên nhi nhiên vậy.
Tôi chỉ biết mình đã từng từ bỏ, chạy trốn với câu chuyện của chữ nghĩa trong những giới hạn về việc hiểu và tầm đón nhận. Nhưng, rõ ràng tôi, hoặc không hẳn là tôi trong những hoàn cảnh đã diễn tiến từ kí ức, quá khứ, từ những trải nghiệm, những thứ tôi gọi là một cơn đau ẩn nghiệm của chính tôi, hoặc xung quanh tôi, về cuộc đời, về con người, về phận kiếp nhân sinh trong vũ trụ này khiến tôi cần, muốn và “nhờ vả” đến ngôn ngữ để được thể hiện sự tồn tại của bản thân, để va đập và sống với đầy đủ mọi nghiệm sinh trọn vẹn nhất mà bản ngã tôi được trao gửi. Tôi có cảm giác, cũng giống như bao nhân vị khác, khi mình được trao ban một ơn huệ, mà tôi cứ đinh ninh rằng, như là thiên tính vậy, mình phải sống đến tận cùng mọi hơi thở của nó, đau đáu, thiết tha, có lúc hoang hoải và có lúc muốn ngồi khóc, nhưng bao giờ cũng lấp lánh hi vọng, cái nhiệt huyết khấp khởi và tràn đầy. Một tồn tại có hi vọng là một tồn tại mà tôi cho là có nghĩa. Tôi sẽ không bàn chuyện tôi đến với văn chương như một kiểu bén duyên, hay hoàn cảnh đưa dẫn. Với tôi, chỉ đơn giản, khi đã nắm bắt được sự đặc biệt từ câu chuyện chữ nghĩa, tôi nghĩ, tôi đã được trao ban cho một sứ mệnh làm người, làm một nhân vị tồn tại đủ đầy cả hai bản thể hoàn hảo của tạo hóa bằng việc thể nghiệm với ngôn từ.
Tôi cảm thấy may mắn, vì rõ ràng, tôi chẳng phải chạy trốn nó, mà ngược lại, khi tắm mình vào nó, tôi thấy như tôi đang tắm mình vào cuộc đời, và cuộc đời tôi như được nhân lên nhiều lần trong cuộc đời của những thân phận khác. Tôi không còn hãi sợ. Tất nhiên, có khi, chính những trải nghiệm ấy có thể khổ đau chút ít, cô đơn chút ít theo cách nghĩ của người đời, nhưng với riêng tôi, nó hoàn toàn khác. Tôi như độc hành mà tràn đầy, như lữ thứ mà hạnh phúc vạn nẻo, bởi đó là cảm giác chiếm hữu chính bản thân mình mà tôi muốn, hoặc chiếm hữu lấy đời sống của kẻ khác, chiếm hữu vũ trụ và hiểu rõ hơn nữa về bản thể của con người. Như một kiểu đi du lịch ấy, trong một cuộc chơi kĩ nghệ cũng nhiêu khê công phu lắm, như phiêu lưu, khám phá, hay khuấy động những thứ còn ẩn giấu rất sâu trong thế giới kì lạ này, những thứ nhức nhối mà cuốn hút.
Tôi nghĩ, văn chương ở ngữ nghĩa khác trước hết là cũng trải nghiệm cá nhân, là nhu cầu nội tại được thể hiện, được nói. Với tư cách là một người cầm bút, tôi cho rằng khi nào con người ta còn muốn làm một cây sậy biết trăn trở, văn chương còn là một sân chơi mà bản thân mỗi chúng tôi đều không muốn làm cầu thủ dự bị, dù mang căn tính Việt hay bất kì màu da sắc tộc nào. Thử nhìn xem văn chương thế giới đã đi một con đường rất dài, rất rộng, và vượt trội về tất cả mọi phương diện, nhất là tầm tư tưởng. Nhưng, trong quá trình hội nhập và mở rộng biên độ giao lưu văn hóa ngôn ngữ, nhờ thế, văn chương đương đại Việt cũng được dự phần kết nối mạnh mẽ với nền văn chương đương đại thế giới, và bắt đầu đạt được một số thành tựu cụ thể qua các giải thưởng văn học quốc tế.
Tôi chỉ là một người cầm bút, thích được lặng lẽ trong góc nhỏ nào đấy, nơi mình được thỏa sức và tung chí. Tôi nghĩ nhiều người cầm bút khác cũng có ước muốn tương tự. Đôi khi ta nói về văn chương và gán nhãn dân tộc tính hay ranh giới địa lý, vô hình chung chúng ta tự đặt mình ra khỏi dòng chảy của văn chương. Cái tôi muốn nói là giới hạn về ngôn ngữ. Song, chúng ta đều thấy, rất nhiều dịch phẩm văn chương thế giới đã có bản Việt ngữ. Tôi thấy nhiều nhà văn Việt có tài, một số tác phẩm khiến tôi mê mải, nhưng dường như vẫn chưa vươn ra được ngoài ranh giới của tiếng Việt, hẳn là do ngôn ngữ hay chuyện dịch thuật và xuất bản.
*
Bản thân tôi khởi đầu bằng những sáng tác truyện ngắn, đây là một thể loại mà tôi lấy làm thích thú. Tôi vẫn đau đáu với những thử sức dài hơi hơn, nơi tôi được tung hoành ngang dọc. Song, chính trong sự ngắn gọn và eo hẹp của câu chữ, truyện ngắn như một thể loại mà sự nín nhịn của nhà văn được đẩy lên cao trào, và thường bùng nổ vào những chữ, những chấm phẩy sau cuối. Như món mầm đá mà người đọc phải chấp nhận chờ đợi để rồi được hân hoan tận cùng, hoang hoải tận cùng hoặc đau đáu tận cùng với nhân vật với người viết và với những hiện sinh của riêng tư độc giả.
Truyện ngắn là một thể loại tưởng dễ nằm lòng, nhưng thực ra sức đẩy và đàn hồi của nó khiến người viết luôn phải đau đáu tìm cho ra được một cách thể hiện uyển chuyển, kết hợp giữa ý tưởng, tình tiết và chuyện dụng ngôn. Tôi nghĩ, có nhà văn khởi nghiệp bằng truyện ngắn và kết nghiệp cùng với nó. Có những nhà văn xuất sắc coi truyện ngắn như ngòi nổ và những thể loại dài hơi, tiểu thuyết chẳng hạn, là phát đại bác. Tôi cứ có cảm giác, sức công phá của một ngòi nổ đôi khi còn rắn rỏi và bùng cháy hơn cả một phát đại bác, nếu như nó gợi mở được sự đồng điệu của người đọc, như những số phận gặp số phận vậy. Bản thân tôi vẫn muốn tiếp tục làm được một cái gì đấy cùng truyện ngắn. Xét đến cùng, truyện có thể ngắn nhưng số phận nhân vật và kiếp tồn sinh vẫn có thể dài. Câu chữ có thể gọn lỏn nhưng những ý vị của nó, sự gợi mở của nó vẫn có thể không cùng. Tất nhiên, trong sự chồng chéo và đan cài của rất nhiều những trải nghiệm văn chương, như một tiên nghiệm vậy, tôi vẫn muốn tìm cho ra một lối đi, một cách thể hiện riêng. Nhưng đôi khi tôi nghĩ, cách tôi thể hiện riêng có thực sự là độc đáo, hay những ý niệm về thân phận con người mới là cái người viết muốn gửi gắm. Tôi muốn những đứa con tinh thần của mình như những củ hành vậy, để người đọc tự bóc tách những lớp ý vị nào đấy mà bản thân tôi cũng không dự phóng. Tôi sẽ rất hạnh phúc với điều ấy, vì tôi tin rằng, tác phẩm không bao giờ là hoàn kết khi chúng ta thông diễn với tư cách độc giả.
Tôi, thực tình, vẫn chỉ là một người viết mới bắt đầu, và đang chập chững leo lên từng nấc bậc thang của sự sáng tạo. Vậy nên, trò chơi tôi đang chơi vẫn là trò chơi lúc còn khai vị. Tôi cũng muốn định hình một phong cách. Người cầm bút nào cũng khao khát có được một cái riêng, cái tôi không ai sánh. Tôi chưa đủ trải nghiệm, hoặc thành tựu để có thể tự nhận mình là một người viết chuyên nghiệp, nhưng ít ra, tôi cảm thấy mình đã và đang định hình được con đường mà tôi theo đuổi khá rõ ràng.
Thỉnh thoảng, tôi lại có cảm giác lười nhác với những chuyện đẽo gọt hay nhuận sắc, kiểu kĩ nghệ gia công quá mức. Có điều, tôi biết, những gì tôi đang viết, những gì tôi đang thể nghiệm, từ bút pháp đến đề tài, đều mang ý hướng dẫn đưa tôi tới việc vươn lên, với một cách thế không giới hạn. Thiết nghĩ, chắc hẳn, không một người viết nào có thể tách rời chính sự hiện hữu của mình với thế giới này, với những hình hài cụ thể của một cuộc hiện sinh đủ đầy cung bậc đang tồn tại ngay xung quanh họ. Riêng cá nhân tôi, lúc này, cùng với sự đổi thay của thế giới vật chất cũng như tinh thần của con người, tôi biết, thử thách lớn nhất đối với công việc mà tôi đang theo đuổi, đó không chỉ là một trào lưu, một xu hướng, mà tôi đánh giá cao sự nhận thức về tầm tư tưởng. Bởi nếu không có tư tưởng, tác phẩm văn chương chỉ là một cuộc dạo chơi nhạt nhẽo, chắp nối, không có chiều sâu. Tất nhiên, với riêng thể loại truyện ngắn nói riêng và văn chương nói chung, tôi nghĩ, nó vẫn phải là chuyện trò chơi, chuyện giải trí. Nhưng sau rốt, nó thắp lên trong lòng người ta một ý niệm nào đấy. Và người ta nhớ được một tay cầm bút cụ thể, là ở ý tưởng và cũng còn ở cách thể hiện. Tôi nghĩ rằng phong cách của tôi là chưa hoàn kết. Nhà văn Lê Anh Hoài đã từng nhận xét và đọc vị về một truyện ngắn của tôi như sau: “Kiểu hành văn theo tư duy liên hệ mờ này nảy sinh khá nhiều liên tưởng thú vị và có thể cũng gây khó chịu với những người đọc quen lối nghĩ văn chương phải là những diễn giải rõ ràng”. Tôi nghĩ, người cầm bút diễn giải thế giới. Và mỗi người là một sắc một hương. Tôi chỉ mong mình làm một loài hoa không cần quá đẹp, nhưng có chút ý vị hay mùi hương gì đấy riêng biệt có thể khiến người ta nhớ đến.
*
Trong xu thế văn học hiện nay, cá nhân tôi nhận thấy, người viết, [nhất là, những người viết trẻ hiện nay], đã thực sự tiếp nhận, tiếp cận rất tinh nhạy về mọi mặt và có sự thay đổi rất lớn trong lối viết cũng như việc đón nhận tư tưởng, dự phóng cho một nguồn năng lượng dồi dào để luôn vươn về phía trước. Họ đã biết cách mở rộng biên độ thể nghiệm từ bút pháp đến đề tài, cũng như mạnh dạn bứt phá, thể nghiệm bản ngã, hòa nhập vào dòng chảy của cuộc sống hiện đại, của lịch sử, thông qua tác phẩm của mình.
Dĩ nhiên không phải tất cả, nhưng, trong số những tác giả trẻ hiện nay mà tôi biết, tôi dõi theo và có hứng thú luôn là những tác giả tự chọn con đường đi riêng biệt, khá trái chiều so với dòng chảy chung, thì lại tràn đầy nội lực. Tôi cảm thấy họ có thể đi được đường dài, họ đã/đang tiếp tục theo đuổi niềm đam mê sáng tạo đẹp đẽ đó với tất cả sức lực của mình.
Tôi những mong bản thân và những người cầm bút giữ được niềm hăng say ấy. Vì xét đến cùng, con đường của người cầm bút là con đường của hân hoan và cả tuyệt vọng, của cô đơn sáng tạo. Đôi khi, cơm áo vẫn khiến người trẻ phải tạm gác lại những hoài vọng chữ nghĩa để vun vén. Tôi, tuy thế, vẫn tin rằng, một khi người cầm bút có đam mê, có khao khát sống thêm những cuộc đời nhiều hơn một cuộc đời khác nữa, sẽ luôn đau đáu với thân phận con người, hẳn anh ta không thể dễ dàng phủi tay rời bỏ cuộc chơi được. Có cái gì đó như định mệnh.
Và với những người trẻ, vấn đề thần tượng văn chương, nói ngắn gọn, tôi không muốn thần tượng bất cứ ai, nhưng hẳn nhiên trong quá trình đọc và viết tôi vẫn phải tìm cảm hứng từ một vài tác giả nào đó mà tôi thích, có thể tôi sẽ học hỏi ở họ một vài thứ mà tôi thấy độc đáo, đặc biệt. Nhưng, có khi, tôi nghĩ, những người thầy của tôi lại chẳng ở đâu xa, họ ở chính ngay trong cuộc sống đời thường của tôi, từ những người bạn mà tôi có duyên được quen biết gặp gỡ, trải nghiệm và chia sẻ với họ về việc sáng tạo, về việc cảm nhận sự sáng tạo ở các thể loại khác nhau không chỉ là văn chương. Nếu có thể đưa ra một vài lựa chọn riêng về tác phẩm, tác giả mà tôi cảm thấy hứng thú. Chẳng hạn, đối với nền văn học đương đại hiện nay. Bởi vì cảm nhận thì mang tính nhất thời, có thể giai đoạn đó, tôi đọc tác phẩm đó, và tôi thấy thích nó, nhưng, chẳng hạn ở một giai đoạn khác, khi cảm quan và tâm thế tiếp nhận của tôi đã thay đổi, tôi có thể sẽ không thích tác phẩm đó nữa. Dĩ nhiên, một tác phẩm có thể để lại ấn tượng lâu dài thì hẳn là tác phẩm ấy phải gây cho tôi ấn tượng mạnh về ý niệm, về khả năng sáng tạo, bút pháp của tác giả, quan trọng nhất là nó có mang tầm tư tưởng đột phá mới mẻ hay không.
Ở đây, tôi sẽ không đề cập chi tiết tác phẩm mà mình yêu thích nhất, vì tôi… thích rất nhiều. Những tác phẩm khiến tôi thấy mình được trải nghiệm người thêm một kiếp sống khác, kể cả những tác phẩm thuần túy giải trí như của Dan Brown, những tác phẩm mang đậm triết thuyết, dù là bản thể luận hay nhận thức luận, như của Camus hay Sartre… đều khiến tôi thấy thích thú. Nhưng, chốt lại, tôi vẫn thích những tác phẩm văn chương mang tính phá cách, có chiều sâu về tư tưởng, triết thuyết. Đôi khi, đơn giản hơn, chỉ là sự thoáng qua về tiêu đề của một trước tác nào đấy mình có biết, hoặc đã đọc cũng đủ để lại ấn tượng, “Đời nhẹ khôn kham” hay “Buồn nôn” chẳng hạn. Cái giai điệu mà chẳng có âm thanh nào của nó cứ khiến mình nhức nhối và trở trăn. Những lúc ấy, với tư cách là một độc giả, tôi càng thấy trân trọng công việc của một người bếp núc chữ nghĩa.
T.B.K
(TCSH335/01-2017)
LÝ VIỆT DŨNGThiền tông, nhờ lịch sử lâu dài, với những Thiền ngữ tinh diệu kỳ đặc cùng truyền thuyết sinh động, lại chịu ảnh hưởng sâu sắc văn hóa Á đông xưa và thấm nhuần văn hóa Tây phương ngày nay nên đã cấu thành một thế giới Thiền thâm thúy, to rộng.
TRẦN HUYỀN SÂM1. Theo tôi, cho đến nay, chúng ta chưa có những đánh giá xác đáng về hiện tượng Xuân Thu nhã tập: Cả trên phương diện lý thuyết lẫn thực tiễn sáng tác. Có phải là nguyên do, nhóm này đã bị khoanh vào hai chữ “BÍ HIỂM”?
PHI HÙNGĐỗ Lai Thuý đã từng nói ở đâu đó rằng, anh đến với phê bình (bài in đầu tiên 1986) như một con trâu chậm (hẳn sinh năm Kỷ Sửu?).Vậy mà đến nay (2002), anh đã có 4 đầu sách: Con mắt thơ (Phê bình phong cách thơ mới, 1992, 1994, 1998, 2000 - đổi tên Mắt thơ), Hồ Xuân Hương - hoài niệm phồn thực (Nghiên cứu thơ Hồ Xuân Hương từ tín ngưỡng phồn thực, 1999), Từ cái nhìn văn hoá (Tập tiểu luận, 2000), Chân trời có người bay (Chân dung các nhà nghiên cứu, 2002), ngoài ra còn một số sách biên soạn, giới thiệu, biên dịch...
PHI HÙNG(tiếp theo)
TRẦN ĐỨC ANH SƠNCuối tuần rảnh rỗi, tôi rủ mấy người bạn về nhà làm một độ nhậu cuối tuần. Rượu vào lời ra, mọi người say sưa bàn đủ mọi chuyện trên đời, đặc biệt là những vấn đề thời sự nóng bỏng như: sự sa sút của giáo dục; nạn “học giả bằng thật”; nạn tham nhũng...
HỒ VIẾT TƯSau buổi bình thơ của liên lớp cuối cấp III Trường Bổ túc công nông Bình Trị Thiên, dưới sự hướng dẫn của thầy Trần Văn Châu dạy văn, hồi đó (1980) thầy mượn được máy thu băng, có giọng ngâm của các nghệ sĩ là oai và khí thế lắm. Khi bình bài Giải đi sớm.
PHAN TRỌNG THƯỞNGLTS: Trong hai ngày 02 và 03 tháng 3 năm 2006, tại thủ đô Hà Nội đã diễn ra Hội nghị lý luận – phê bình văn học nghệ thuật toàn quốc. Trên 150 nhà nghiên cứu, lý luận, phê bình đã tham dự và trình bày các tham luận có giá trị; đề xuất nhiều vấn đề quan trọng, thiết thực của đời sống lý luận, phê bình văn học nghệ thuật hiện đại ở nước ta, trong đối sánh với những thành tựu của lý luận – phê bình văn học nghệ thuật thế giới.
NGUYỄN TRỌNG TẠO1. Con người không có thơ thì chỉ là một cái máy bằng xương thịt. Thế giới không có thơ thì chỉ là một cái nhà hoang. Octavio Paz cho rằng: “Nếu thiếu thơ thì đến cả nói năng cũng trở nên ú ớ”.
PHẠM PHÚ PHONGTri thức được coi thực sự là tri thức khi đó là kết quả của sự suy nghĩ tìm tòi, chứ không phải là trí nhớ. L.Tonstoi
TRẦN THANH HÀTrong giới học thuật, Trương Đăng Dung được biết đến như một người làm lý luận thuần tuý. Bằng lao động âm thầm, cần mẫn Trương Đăng Dung đã đóng góp cho nền lý luận văn học hiện đại Việt đổi mới và bắt kịp nền lý luận văn học trên thế giới.
PHẠM XUÂN PHỤNG Chu Dịch có 64 quẻ, mỗi quẻ có 6 hào. Riêng hai quẻ Bát Thuần Càn và Bát Thuần Khôn, mỗi quẻ có thêm một hào.
NGÔ ĐỨC TIẾNPhan Đăng Dư, thân phụ nhà cách mạng Phan Đăng Lưu là người họ Mạc, gốc Hải Dương. Đời Mạc Mậu Giang, con vua Mạc Phúc Nguyên lánh nạn vào Tràng Thành (nay là Hoa Thành, Yên Thành, Nghệ An) sinh cơ lập nghiệp ở đó, Phan Đăng Dư là hậu duệ đời thứ 14.
HỒ THẾ HÀLTS: Văn học Việt về đề tài chiến tranh là chủ đề của cuộc Toạ đàm văn học do Hội Nhà văn Thừa Thiên Huế tổ chức ngày 20 tháng 12 năm 2005. Tuy tự giới hạn ở tính chất và phạm vi hẹp, nhưng Toạ đàm đã thu hút đông đảo giới văn nghệ sĩ, nhà giáo, trí thức ở Huế tham gia, đặc biệt là những nhà văn từng mặc áo lính ở chiến trường. Gần 20 tham luận gửi đến và hơn 10 ý kiến thảo luận, phát biểu trực tiếp ở Toạ đàm đã làm cho không khí học thuật và những vấn đề thực tiễn của sáng tạo văn học về đề tài chiến tranh trở nên cấp thiết và có ý nghĩa. Sông Hương trân trọng giới thiệu bài Tổng lược và 02 bài Tham luận đã trình bày ở cuộc Toạ đàm.
TRẦN HUYỀN SÂM1. Tại diễn đàn Nobel năm 2005, Harold Pinter đã dành gần trọn bài viết của mình cho vấn đề chiến tranh. Ông cho rằng, nghĩa vụ hàng đầu của một nghệ sĩ chân chính là góp phần làm rõ sự thật về chiến tranh: “Cái nghĩa vụ công dân cốt yếu nhất mà tất cả chúng ta đều phải thi hành là... quyết tâm dũng mãnh để xác định cho được sự thật thực tại...
NGUYỄN HỒNG DŨNG"HỘI CHỨNG VIỆT NAM"Trong lịch sử chiến tranh Mỹ, thì chiến tranh Việt Nam là cuộc chiến tranh mà người Mỹ bị sa lầy lâu nhất (1954-1975), và đã để lại những hậu quả nặng nề cho nước Mỹ. Hậu quả đó không chỉ là sự thất bại trong cuộc chiến, mà còn ở những di chứng kéo dài làm ảnh hưởng trầm trọng đến đời sống Mỹ, mà người Mỹ gọi đó là "Hội chứng Việt Nam".
BÍCH THUNăm 2005, GS. Phong Lê vinh dự nhận giải thưởng Nhà nước về Khoa học với cụm công trình: Văn học Việt Nam hiện đại - những chân dung tiêu biểu (Nxb ĐHQG, H, 2001, 540 trang); Một số gương mặt văn chương - học thuật Việt hiện đại (Nxb GD, H, 2001, 450 trang); Văn học Việt hiện đại - lịch sử và lý luận (Nxb KHXH. H, 2003, 780 trang). Đây là kết quả của một quá trình nghiên cứu khoa học say mê, tâm huyết và cũng đầy khổ công, vất vả của một người sống tận tụy với nghề.
THÁI DOÃN HIỂU Trong hôn nhân, đàn bà lấy chồng là để vào đời, còn đàn ông cưới vợ là để thoát ra khỏi cuộc đời. Hôn nhân tốt đẹp tạo nên hạnh phúc thiên đường, còn hôn nhân trắc trở, đổ vỡ, gia đình thành bãi chiến trường. Tình yêu chân chính thanh hóa những tâm hồn hư hỏng và tình yêu xấu làm hư hỏng những linh hồn trinh trắng.
NGUYỄN THỊ MỸ LỘCLà người biết yêu và có chút văn hóa không ai không biết Romeo and Juliet của Shakespeare, vở kịch được sáng tác cách ngày nay vừa tròn 410 năm (1595 - 2005). Ngót bốn thế kỷ nay Romeo and Juliet được coi là biểu tượng của tình yêu. Ý nghĩa xã hội của tác phẩm đã được thừa nhận, giá trị thẩm mĩ đã được khám phá, hiệu ứng bi kịch đã được nghiền ngẫm... Liệu còn có gì để khám phá?
NGUYỄN VĂN HẠNH1. Từ nhiều năm nay, và bây giờ cũng vậy, chúng ta chủ trương xây dựng một nền văn nghệ mới ngang tầm thời đại, xứng đáng với tài năng của dân tộc, của đất nước.
HỒ THẾ HÀ(Tham luận đọc tại Hội thảo Tạp chí văn nghệ 6 tỉnh Bắc miền Trung)