TRẦN BĂNG KHUÊ
Với văn chương, tôi không biết phải nói về nó như thế nào, về việc bén duyên, hay hoàn cảnh thôi thúc tôi đến với nó. Những ý niệm này, có đôi lần tôi đã lẩn thẩn nghĩ đến, thỉnh thoảng băn khoăn một chút, rồi thì mọi sự dường như diễn tiến theo một cách nào đó tôi cũng không nắm bắt được nữa. Tự nhiên nhi nhiên vậy.
Tôi chỉ biết mình đã từng từ bỏ, chạy trốn với câu chuyện của chữ nghĩa trong những giới hạn về việc hiểu và tầm đón nhận. Nhưng, rõ ràng tôi, hoặc không hẳn là tôi trong những hoàn cảnh đã diễn tiến từ kí ức, quá khứ, từ những trải nghiệm, những thứ tôi gọi là một cơn đau ẩn nghiệm của chính tôi, hoặc xung quanh tôi, về cuộc đời, về con người, về phận kiếp nhân sinh trong vũ trụ này khiến tôi cần, muốn và “nhờ vả” đến ngôn ngữ để được thể hiện sự tồn tại của bản thân, để va đập và sống với đầy đủ mọi nghiệm sinh trọn vẹn nhất mà bản ngã tôi được trao gửi. Tôi có cảm giác, cũng giống như bao nhân vị khác, khi mình được trao ban một ơn huệ, mà tôi cứ đinh ninh rằng, như là thiên tính vậy, mình phải sống đến tận cùng mọi hơi thở của nó, đau đáu, thiết tha, có lúc hoang hoải và có lúc muốn ngồi khóc, nhưng bao giờ cũng lấp lánh hi vọng, cái nhiệt huyết khấp khởi và tràn đầy. Một tồn tại có hi vọng là một tồn tại mà tôi cho là có nghĩa. Tôi sẽ không bàn chuyện tôi đến với văn chương như một kiểu bén duyên, hay hoàn cảnh đưa dẫn. Với tôi, chỉ đơn giản, khi đã nắm bắt được sự đặc biệt từ câu chuyện chữ nghĩa, tôi nghĩ, tôi đã được trao ban cho một sứ mệnh làm người, làm một nhân vị tồn tại đủ đầy cả hai bản thể hoàn hảo của tạo hóa bằng việc thể nghiệm với ngôn từ.
Tôi cảm thấy may mắn, vì rõ ràng, tôi chẳng phải chạy trốn nó, mà ngược lại, khi tắm mình vào nó, tôi thấy như tôi đang tắm mình vào cuộc đời, và cuộc đời tôi như được nhân lên nhiều lần trong cuộc đời của những thân phận khác. Tôi không còn hãi sợ. Tất nhiên, có khi, chính những trải nghiệm ấy có thể khổ đau chút ít, cô đơn chút ít theo cách nghĩ của người đời, nhưng với riêng tôi, nó hoàn toàn khác. Tôi như độc hành mà tràn đầy, như lữ thứ mà hạnh phúc vạn nẻo, bởi đó là cảm giác chiếm hữu chính bản thân mình mà tôi muốn, hoặc chiếm hữu lấy đời sống của kẻ khác, chiếm hữu vũ trụ và hiểu rõ hơn nữa về bản thể của con người. Như một kiểu đi du lịch ấy, trong một cuộc chơi kĩ nghệ cũng nhiêu khê công phu lắm, như phiêu lưu, khám phá, hay khuấy động những thứ còn ẩn giấu rất sâu trong thế giới kì lạ này, những thứ nhức nhối mà cuốn hút.
Tôi nghĩ, văn chương ở ngữ nghĩa khác trước hết là cũng trải nghiệm cá nhân, là nhu cầu nội tại được thể hiện, được nói. Với tư cách là một người cầm bút, tôi cho rằng khi nào con người ta còn muốn làm một cây sậy biết trăn trở, văn chương còn là một sân chơi mà bản thân mỗi chúng tôi đều không muốn làm cầu thủ dự bị, dù mang căn tính Việt hay bất kì màu da sắc tộc nào. Thử nhìn xem văn chương thế giới đã đi một con đường rất dài, rất rộng, và vượt trội về tất cả mọi phương diện, nhất là tầm tư tưởng. Nhưng, trong quá trình hội nhập và mở rộng biên độ giao lưu văn hóa ngôn ngữ, nhờ thế, văn chương đương đại Việt cũng được dự phần kết nối mạnh mẽ với nền văn chương đương đại thế giới, và bắt đầu đạt được một số thành tựu cụ thể qua các giải thưởng văn học quốc tế.
Tôi chỉ là một người cầm bút, thích được lặng lẽ trong góc nhỏ nào đấy, nơi mình được thỏa sức và tung chí. Tôi nghĩ nhiều người cầm bút khác cũng có ước muốn tương tự. Đôi khi ta nói về văn chương và gán nhãn dân tộc tính hay ranh giới địa lý, vô hình chung chúng ta tự đặt mình ra khỏi dòng chảy của văn chương. Cái tôi muốn nói là giới hạn về ngôn ngữ. Song, chúng ta đều thấy, rất nhiều dịch phẩm văn chương thế giới đã có bản Việt ngữ. Tôi thấy nhiều nhà văn Việt có tài, một số tác phẩm khiến tôi mê mải, nhưng dường như vẫn chưa vươn ra được ngoài ranh giới của tiếng Việt, hẳn là do ngôn ngữ hay chuyện dịch thuật và xuất bản.
*
Bản thân tôi khởi đầu bằng những sáng tác truyện ngắn, đây là một thể loại mà tôi lấy làm thích thú. Tôi vẫn đau đáu với những thử sức dài hơi hơn, nơi tôi được tung hoành ngang dọc. Song, chính trong sự ngắn gọn và eo hẹp của câu chữ, truyện ngắn như một thể loại mà sự nín nhịn của nhà văn được đẩy lên cao trào, và thường bùng nổ vào những chữ, những chấm phẩy sau cuối. Như món mầm đá mà người đọc phải chấp nhận chờ đợi để rồi được hân hoan tận cùng, hoang hoải tận cùng hoặc đau đáu tận cùng với nhân vật với người viết và với những hiện sinh của riêng tư độc giả.
Truyện ngắn là một thể loại tưởng dễ nằm lòng, nhưng thực ra sức đẩy và đàn hồi của nó khiến người viết luôn phải đau đáu tìm cho ra được một cách thể hiện uyển chuyển, kết hợp giữa ý tưởng, tình tiết và chuyện dụng ngôn. Tôi nghĩ, có nhà văn khởi nghiệp bằng truyện ngắn và kết nghiệp cùng với nó. Có những nhà văn xuất sắc coi truyện ngắn như ngòi nổ và những thể loại dài hơi, tiểu thuyết chẳng hạn, là phát đại bác. Tôi cứ có cảm giác, sức công phá của một ngòi nổ đôi khi còn rắn rỏi và bùng cháy hơn cả một phát đại bác, nếu như nó gợi mở được sự đồng điệu của người đọc, như những số phận gặp số phận vậy. Bản thân tôi vẫn muốn tiếp tục làm được một cái gì đấy cùng truyện ngắn. Xét đến cùng, truyện có thể ngắn nhưng số phận nhân vật và kiếp tồn sinh vẫn có thể dài. Câu chữ có thể gọn lỏn nhưng những ý vị của nó, sự gợi mở của nó vẫn có thể không cùng. Tất nhiên, trong sự chồng chéo và đan cài của rất nhiều những trải nghiệm văn chương, như một tiên nghiệm vậy, tôi vẫn muốn tìm cho ra một lối đi, một cách thể hiện riêng. Nhưng đôi khi tôi nghĩ, cách tôi thể hiện riêng có thực sự là độc đáo, hay những ý niệm về thân phận con người mới là cái người viết muốn gửi gắm. Tôi muốn những đứa con tinh thần của mình như những củ hành vậy, để người đọc tự bóc tách những lớp ý vị nào đấy mà bản thân tôi cũng không dự phóng. Tôi sẽ rất hạnh phúc với điều ấy, vì tôi tin rằng, tác phẩm không bao giờ là hoàn kết khi chúng ta thông diễn với tư cách độc giả.
Tôi, thực tình, vẫn chỉ là một người viết mới bắt đầu, và đang chập chững leo lên từng nấc bậc thang của sự sáng tạo. Vậy nên, trò chơi tôi đang chơi vẫn là trò chơi lúc còn khai vị. Tôi cũng muốn định hình một phong cách. Người cầm bút nào cũng khao khát có được một cái riêng, cái tôi không ai sánh. Tôi chưa đủ trải nghiệm, hoặc thành tựu để có thể tự nhận mình là một người viết chuyên nghiệp, nhưng ít ra, tôi cảm thấy mình đã và đang định hình được con đường mà tôi theo đuổi khá rõ ràng.
Thỉnh thoảng, tôi lại có cảm giác lười nhác với những chuyện đẽo gọt hay nhuận sắc, kiểu kĩ nghệ gia công quá mức. Có điều, tôi biết, những gì tôi đang viết, những gì tôi đang thể nghiệm, từ bút pháp đến đề tài, đều mang ý hướng dẫn đưa tôi tới việc vươn lên, với một cách thế không giới hạn. Thiết nghĩ, chắc hẳn, không một người viết nào có thể tách rời chính sự hiện hữu của mình với thế giới này, với những hình hài cụ thể của một cuộc hiện sinh đủ đầy cung bậc đang tồn tại ngay xung quanh họ. Riêng cá nhân tôi, lúc này, cùng với sự đổi thay của thế giới vật chất cũng như tinh thần của con người, tôi biết, thử thách lớn nhất đối với công việc mà tôi đang theo đuổi, đó không chỉ là một trào lưu, một xu hướng, mà tôi đánh giá cao sự nhận thức về tầm tư tưởng. Bởi nếu không có tư tưởng, tác phẩm văn chương chỉ là một cuộc dạo chơi nhạt nhẽo, chắp nối, không có chiều sâu. Tất nhiên, với riêng thể loại truyện ngắn nói riêng và văn chương nói chung, tôi nghĩ, nó vẫn phải là chuyện trò chơi, chuyện giải trí. Nhưng sau rốt, nó thắp lên trong lòng người ta một ý niệm nào đấy. Và người ta nhớ được một tay cầm bút cụ thể, là ở ý tưởng và cũng còn ở cách thể hiện. Tôi nghĩ rằng phong cách của tôi là chưa hoàn kết. Nhà văn Lê Anh Hoài đã từng nhận xét và đọc vị về một truyện ngắn của tôi như sau: “Kiểu hành văn theo tư duy liên hệ mờ này nảy sinh khá nhiều liên tưởng thú vị và có thể cũng gây khó chịu với những người đọc quen lối nghĩ văn chương phải là những diễn giải rõ ràng”. Tôi nghĩ, người cầm bút diễn giải thế giới. Và mỗi người là một sắc một hương. Tôi chỉ mong mình làm một loài hoa không cần quá đẹp, nhưng có chút ý vị hay mùi hương gì đấy riêng biệt có thể khiến người ta nhớ đến.
*
Trong xu thế văn học hiện nay, cá nhân tôi nhận thấy, người viết, [nhất là, những người viết trẻ hiện nay], đã thực sự tiếp nhận, tiếp cận rất tinh nhạy về mọi mặt và có sự thay đổi rất lớn trong lối viết cũng như việc đón nhận tư tưởng, dự phóng cho một nguồn năng lượng dồi dào để luôn vươn về phía trước. Họ đã biết cách mở rộng biên độ thể nghiệm từ bút pháp đến đề tài, cũng như mạnh dạn bứt phá, thể nghiệm bản ngã, hòa nhập vào dòng chảy của cuộc sống hiện đại, của lịch sử, thông qua tác phẩm của mình.
Dĩ nhiên không phải tất cả, nhưng, trong số những tác giả trẻ hiện nay mà tôi biết, tôi dõi theo và có hứng thú luôn là những tác giả tự chọn con đường đi riêng biệt, khá trái chiều so với dòng chảy chung, thì lại tràn đầy nội lực. Tôi cảm thấy họ có thể đi được đường dài, họ đã/đang tiếp tục theo đuổi niềm đam mê sáng tạo đẹp đẽ đó với tất cả sức lực của mình.
Tôi những mong bản thân và những người cầm bút giữ được niềm hăng say ấy. Vì xét đến cùng, con đường của người cầm bút là con đường của hân hoan và cả tuyệt vọng, của cô đơn sáng tạo. Đôi khi, cơm áo vẫn khiến người trẻ phải tạm gác lại những hoài vọng chữ nghĩa để vun vén. Tôi, tuy thế, vẫn tin rằng, một khi người cầm bút có đam mê, có khao khát sống thêm những cuộc đời nhiều hơn một cuộc đời khác nữa, sẽ luôn đau đáu với thân phận con người, hẳn anh ta không thể dễ dàng phủi tay rời bỏ cuộc chơi được. Có cái gì đó như định mệnh.
Và với những người trẻ, vấn đề thần tượng văn chương, nói ngắn gọn, tôi không muốn thần tượng bất cứ ai, nhưng hẳn nhiên trong quá trình đọc và viết tôi vẫn phải tìm cảm hứng từ một vài tác giả nào đó mà tôi thích, có thể tôi sẽ học hỏi ở họ một vài thứ mà tôi thấy độc đáo, đặc biệt. Nhưng, có khi, tôi nghĩ, những người thầy của tôi lại chẳng ở đâu xa, họ ở chính ngay trong cuộc sống đời thường của tôi, từ những người bạn mà tôi có duyên được quen biết gặp gỡ, trải nghiệm và chia sẻ với họ về việc sáng tạo, về việc cảm nhận sự sáng tạo ở các thể loại khác nhau không chỉ là văn chương. Nếu có thể đưa ra một vài lựa chọn riêng về tác phẩm, tác giả mà tôi cảm thấy hứng thú. Chẳng hạn, đối với nền văn học đương đại hiện nay. Bởi vì cảm nhận thì mang tính nhất thời, có thể giai đoạn đó, tôi đọc tác phẩm đó, và tôi thấy thích nó, nhưng, chẳng hạn ở một giai đoạn khác, khi cảm quan và tâm thế tiếp nhận của tôi đã thay đổi, tôi có thể sẽ không thích tác phẩm đó nữa. Dĩ nhiên, một tác phẩm có thể để lại ấn tượng lâu dài thì hẳn là tác phẩm ấy phải gây cho tôi ấn tượng mạnh về ý niệm, về khả năng sáng tạo, bút pháp của tác giả, quan trọng nhất là nó có mang tầm tư tưởng đột phá mới mẻ hay không.
Ở đây, tôi sẽ không đề cập chi tiết tác phẩm mà mình yêu thích nhất, vì tôi… thích rất nhiều. Những tác phẩm khiến tôi thấy mình được trải nghiệm người thêm một kiếp sống khác, kể cả những tác phẩm thuần túy giải trí như của Dan Brown, những tác phẩm mang đậm triết thuyết, dù là bản thể luận hay nhận thức luận, như của Camus hay Sartre… đều khiến tôi thấy thích thú. Nhưng, chốt lại, tôi vẫn thích những tác phẩm văn chương mang tính phá cách, có chiều sâu về tư tưởng, triết thuyết. Đôi khi, đơn giản hơn, chỉ là sự thoáng qua về tiêu đề của một trước tác nào đấy mình có biết, hoặc đã đọc cũng đủ để lại ấn tượng, “Đời nhẹ khôn kham” hay “Buồn nôn” chẳng hạn. Cái giai điệu mà chẳng có âm thanh nào của nó cứ khiến mình nhức nhối và trở trăn. Những lúc ấy, với tư cách là một độc giả, tôi càng thấy trân trọng công việc của một người bếp núc chữ nghĩa.
T.B.K
(TCSH335/01-2017)
INRASARATham luận tại Hội thảo “Nhà văn với sự nghiệp công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước”, Hội Nhà văn Việt Nam, Đồng Nai, 8-1-2009.
HOÀNG NGỌC HIẾNWallace Stevens ví hành trình của những nghệ sĩ Tiên phong (hoặc Tiền vệ) của chủ nghĩa hiện đại những thập kỷ đầu thế kỷ XX như những cuộc phiêu lưu của những nhà thám hiểm núi lửa, họ đã đến núi lửa, “đã gửi về tấm bưu ảnh cuối cùng” và lúc này không có ước vọng gì hơn là trở về nhà.
TRẦN HOÀI ANH1. Nhà thơ - Người đọc: Niềm khắc khoải tri âmKhi nói về mối quan hệ giữa nhà thơ và độc giả, Edward Hirsch đã viết: “Nhiều nhà thơ đã nắm lấy ý Kinh Thánh Tân Ước “Khởi thuỷ là lời”, nhưng tôi thích ý kiến của Martin Buber trong “Tôi và bạn” hơn rằng: “Khởi thuỷ là những mối quan hệ” (1).
VIỆT HÙNGCông tác lý luận phê bình văn học nghệ thuật đang là mối quan tâm lo lắng của giới chuyên môn, cũng như của đại đa số công chúng, những người yêu văn học nghệ thuật. Tình trạng phê bình chưa theo kịp sáng tạo, chưa gây được kích thích cho sáng tạo vẫn còn là phổ biến; thậm chí nhiều khi hoặc làm nhụt ý chí của người sáng tạo, hoặc đề cao thái quá những tác phẩm nghệ thuật rất ư bình thường, gây sự hiểu nhầm cho công chúng.
HẢI TRUNGVũ Duy Thanh (1811 - 1863) quê ở xã Kim Bồng, huyện An Khánh, tỉnh Ninh Bình là bảng nhãn đỗ đầu trong khoa thi Chế khoa Bác học Hoành tài năm Tự Đức thứ tư (1851). Người đương thời thường gọi ông là Bảng Bồng, hay là Trạng Bồng.
NGUYỄN SƠNTrên tuần báo Người Hà Nội số 35, ra ngày 01-9-2001, bạn viết Lê Quý Kỳ tỏ ý khiêm nhường khi lạm bàn một vấn đề lý luận cực khó Thử bàn về cái tôi trong văn học. Anh mới chỉ "thử bàn" thôi chứ chưa bàn thật, thảo nào!... Sau khi suy đi tính lại, anh chỉnh lý tí tẹo tiêu đề bài báo thành Bàn về "cái tôi"trong văn học và thêm phần "lạc khoản": Vinh 12-2001, rồi chuyển in trên Tạp chí Văn (Hội Nhà văn Thành phố Hồ Chí Minh), số 4 (Bộ mới, tháng 3-4)-2002. Trong bài trao đổi này chúng tôi trích dẫn căn cứ theo nguyên văn bài báo đã in lần đầu (và về cơ bản không khác với khi đưa in lại).
TRƯƠNG ĐĂNG DUNGCùng với sự phát triển của một thế kỉ văn học dân tộc, lí luận văn học ở Việt Nam cũng đã có những thành tựu, khẳng định sự trưởng thành của tư duy lí luận văn học hiện đại.
NGUYỄN NGỌC THIỆNTrong vài ba thập niên đầu thế kỷ XX, trung xu thế tìm đường hiện đại hóa văn xuôi chữ quốc ngữ, các thể tài tiểu thuyết, phóng sự được một số nhà văn dụng bút thể nghiệm.
L.T.S: Trong ba ngày từ 03 đến 05 tháng 5 năm 2005, tại thành phố Huế đã diễn ra hoạt động khoa học quốc tế có ý nghĩa: Hội thảo khoa học Tác phẩm của F. Jullien với độc giả Việt Nam do Đại học Huế và Đại học Chales- de-Gaulle, Lille 3 tổ chức, cùng sự phối hợp của Đại sứ quán Pháp ở Việt Nam và Agence Universitaire francophone (AUF). Hội thảo có 30 tham luận của nhiều giáo sư, học giả, nhà nghiên cứu Việt Nam, Pháp, Nhật Bản, Hàn Quốc.
NGUYÊN NGỌC1- Trong các tác phẩm của F. Jullien đã được giới thiệu ở Việt , tới nay đã được đến mười quyển, tôi chỉ dịch có một cuốn “Một bậc minh triết thì vô ý” (Un sage est sans idée). Tôi dịch cuốn này là theo gợi ý của anh Hoàng Ngọc Hiến. Khi in, cũng theo đề nghị của anh Hiến và của nhà xuất bản, cuốn sách đã được đổi tên ở ngoài bìa là “Minh triết phương Đông và triết học phương Tây”, các anh bảo như vậy “sẽ dễ bán hơn” (!).
ĐÀO HÙNGTrước khi dịch cuốn Bàn về chữ Thời (Du temps-éléments d′une philosophie du vivre), tôi đã có dịp gặp François Jullien, được nghe ông trình bày những vấn đề nghiên cứu triết học Trung Hoa của ông và trao đổi về việc ứng dụng của triết học trong công việc thực tế. Nhưng lúc bấy giờ thời gian không cho phép tìm hiểu kỹ hơn, nên có nhiều điều chưa cảm thụ được hết.
NGUYỄN VĂN DÂNTheo định nghĩa chung, xã hội học là khoa học nghiên cứu về các sự việc mang tính chất xã hội. Mặc dù cội nguồn của nó phải kể từ thời Aristote của Hy Lạp, nhưng với tư cách là một ngành khoa học, thì xã hội học vẫn là một bộ môn khoa học khá mới mẻ. Ngay cả tên gọi của nó cũng phải đến năm 1836 mới được nhà triết học người Pháp Auguste Comte đặt ra.
MAI VĂN HOANƯớc lệ được xem là một đặc điểm thi pháp của văn học Trung đại. Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du sử dụng khá nhiều bút pháp ước lệ. Có điều nhà thơ sử dụng một cách hết sức linh hoạt, sáng tạo nên tránh được sự sáo mòn, nhàm chán. Không những thế bút pháp ước lệ của Nguyễn Du còn góp phần diễn tả một cách tinh tế, sâu sắc tâm trạng nhân vật. Điều đó thể hiện rất rõ qua cảnh Thuý Kiều đưa tiễn Thúc Sinh về tự thú với Hoạn Thư.
HÀ VĂN LƯỠNG Thơ haiku Nhật bản là một sản phẩm tinh thần quý giá của đời sống văn hoá đất nước Phù Tang. Nó là một thể thơ đặc biệt trong thơ cổ truyền của Nhật bản. Phần lớn các nhà thơ haiku đều là các thiền sư. Chính những nhà thơ thiền sư này đã đưa thiền vào thơ. Vì thế, họ nhìn đời với con mắt nhà sư nhưng bằng tâm hồn của người nghệ sĩ.
TRẦN THANH HÀVăn học bao giờ cũng gắn bó với thời đại và con người. Đặc biệt trong tiến trình đổi mới hôm nay, xu thế hoà nhập với văn hoá phương Tây đã ảnh hưởng không nhỏ đến văn học Việt . Bởi nó đang tác động tới "ý thức chủ thể" của nhà văn.
HOÀNG TẤT THẮNG 1. Chủ tịch Hồ Chí Minh không phải chỉ là một vị lãnh tụ, một người thầy kiệt xuất của phong trào cách mạng Việt mà còn là một nhà thơ, nhà văn xuất sắc trong nền văn học Việt hiện đại. Bác Hồ chưa bao giờ có ý định trở thành nhà thơ, nhà văn, song các tác phẩm thơ văn ngôn ngữ của Người đã trở thành một mẫu mực, một phong cách đặc biệt cho các thế hệ người Việt tiếp tục nghiên cứu và học tập.
NGUYỄN DƯƠNG CÔNĐề tài và chủ đề là hai trạng thái cơ bản nhất, bao dung hết thảy làm nên cấu trúc tổng thể tác phẩm tiểu thuyết. Hai trạng thái đó trong liên kết tương tác gây dẫn nên tất cả những yếu tố ý nghĩa nội hàm tiểu thuyết. Chúng còn đồng thời gây dẫn nên những yếu tố ý nghĩa liên quan nảy sinh trong tư duy tiếp nhận ngoài ý nghĩa nội hàm tiểu thuyết. Nhưng dẫu có như thế, chỉ có thể hình dung cho đúng đắn được đề tài, chủ đề theo định hướng duy nhất thấy chúng trong cấu trúc nội bộ tổng thể tác phẩm tiểu thuyết.
NGUYỄN HỒNG DŨNGQuá trình “hiện đại hoá” văn học Việt Nam giai đoạn 1932 - 1945 diễn ra dưới sự tác động trực tiếp của văn học phương Tây. Gần một thế kỷ nay, khi nghiên cứu những tác động từ bên ngoài vào Việt Nam giai đoạn này các nhà ngữ văn chỉ chủ yếu nhấn mạnh đến ảnh hưởng của văn học Pháp. Trong bài viết này, chúng tôi đề cập đến ảnh hưởng của nhà thơ Mỹ Edgar Poe đối với Hàn Mặc Tử, một đỉnh cao của phong trào “thơ mới”.
PHẠM PHÚ PHONG Tiểu thuyết, đó là một trong những sáng tạo kỳ diệu của con người, đó là một đồ dùng, một vũ khí của con người để tìm hiểu, chinh phục dần thế giới và để tìm hiểu nhau và sống với nhau. Nguyễn Đình Thi
PHONG LÊ(Trích - Nhìn từ các mục tiêu của công việc “viết”)