Có một bộ phim tôi không thực nhớ nội dung, một bộ phim của Woody Allen mang tên "Đóa hồng tím ở Cairo", câu chuyện mang máng mà tôi còn nhớ, đó là một người phụ nữ thất bại trong tất cả mọi khía cạnh cuộc đời, rồi cô vào một rạp chiếu bóng, xem một bộ phim, và trong giây phút ấy, cô quên béng mất cuộc đời mình, cô òa khóc, không phải vì mình, mà vì những nhân vật trong phim.
Dường như với tôi, văn chương cũng là như vậy, mặc dù có vẻ giống đời thực (nó bắt chước đời hay đời bắt chước nó thì còn là vấn đề cần tranh luận), nhưng thực tế văn chương không liên quan gì tới cuộc đời thực cả, và nó nên như vậy.
Kết luận ấy có thể là vội vã, bởi không có thứ văn chương nào không có chút dính líu đến những trải nghiệm đời thực, ngay cả khi Kafka viết về một người đàn ông bỗng một đêm tỉnh dậy thấy mình biến thành một con bọ gì đó, thì nó ắt cũng sinh ra từ một cảm thức về sự méo mó và lạc loài - những cảm thức có thực. Chứ đừng nói đến Chiến tranh và hòa bình rõ ràng là về cuộc chiến chống Pháp của người Nga. Nhưng có lẽ, cũng giống như nghịch lý cái tàu biển, khi cứ thay dần những bộ phận trên một con tàu sang một bộ phận mới, thì đến bao giờ con tàu không còn là con tàu cũ nữa? Và khi những dữ liệu thực tế được thay dần bằng những diễn ngôn văn học thì đến bao giờ thực tế không còn là thực tế nữa? Tôi thì tin rằng ngay từ khi thay “bộ phận” đầu tiên, dù đó có thể nhỏ như một cây đinh hay một con ốc vít, thì chính lúc này, thực tế đã bị biến dạng và đánh mất mình, con tàu thực tế đã hóa thành con tàu mộng ảo văn chương.
Tôi viết tập truyện ngắn Dưới mái hiên đêm, những khách lạ với một tâm thế như vậy, “con tàu nền móng” của tôi là những câu hỏi thực tế mà một độc giả văn học, một khán giả hội họa, một thính giả âm nhạc hẳn đều đã từng nghĩ qua: Shakespeare có thật đã viết ra những vở kịch vĩ đại ấy? Mà Shakespeare thật sự là ai? Elvis Presley có phải đã chết không hay vẫn còn sống đâu đó trên đời? Hemingway tại sao lại tự sát? Mối quan hệ giữa Gauguin và Van Gogh phải chăng có gì đó gần giống một tình yêu, hay một dục vọng hủy hoại lẫn nhau, như trong những áng văn của Yukio Mishima vậy? Tại sao Van Gogh phát điên? Người ta đã lấy trái tim của Chopin ra như thế nào sau khi ông mất? Hay trong văn chương Việt Nam, chẳng nhẽ bạn không tò mò Nguyễn Tuân đã quay Cánh đồng ma như thế nào và đã diễn ra sao ở Hương Cảng ư? Tôi thì có. Và tôi cũng luôn thấy thật bí hiểm, cái cách mà một văn nhân như Tố Như lại đi giang hồ trong suốt ba năm.
Không, tôi không muốn cố gắng đưa ra một giả thuyết cho những điều ấy - nếu muốn đọc giả thuyết, người ta có thể, chỉ mất ba giây, tra trên Google, nghiên cứu có mà thuyết âm mưu cũng có. Tôi cũng không muốn làm sáng tỏ bất cứ câu hỏi nào, bởi lẽ, tôi tin người ta không (nên) tìm đến văn chương vì sự sáng tỏ: người viết văn có thể am tường một chủ đề nào đó nhưng lại không thể chính xác như người viết sử hay những người làm khoa học, người viết văn cũng suy tư về cuộc đời nhưng lại cũng không thể sâu xa lắm lí lẽ như một triết gia, nói rằng người viết văn cần nắm bắt tâm lý con người cũng đúng nhưng họ cũng không hiểu nó thấu đáo như một nhà tâm lý, và bạn thấy đấy, có nghĩa văn chương vốn dĩ đã không cần thiết, nó chỉ nằm ở lưng chừng cho những ai quyết định rằng, tôi chỉ muốn vãn cảnh dạo chơi, đừng bắt tôi khăn gói đi tới tận cùng của những tận cùng. Tất nhiên, có những cuộc “vãn cảnh” chất chứa những trò chơi mạo hiểm, như cuộc viết của Dostoevsky, của Lev Tolstoi, của Kafka, và nhiều nữa.
Quay lại câu chuyện của cá nhân mình, vâng, tôi không có ý định rằng, sau khi đọc xong bạn sẽ sáng tỏ Shakespeare là ai, Hemingway vì đâu tự sát, mối quan hệ của Gauguin và Van Gogh thực chất là gì. Dù muốn hay không, tôi nhận ra rằng mỗi con người này, ngay cả khi tôi đọc một tiểu sử trình bày cu ti củ tỉ từng mốc thời gian cuộc đời họ, thì vẫn còn rất nhiều những khoảng trống, những ngày nằm giữa các cột mốc đó, vẫn còn trắng xóa, mờ mịt và bí ẩn. Tất cả những cuốn tiểu sử (và cả cáo phó nữa, hỡi ôi!) đều dựa trên giả định rằng, cuộc đời con người là những gạch đầu dòng, những sự kiện ngắt quãng nhau, trong khi đó, cuộc đời thực là những chuỗi ngày nối liên tục, những giờ trôi qua không ngưng nghỉ, hay ít nhất ảo tưởng về thời gian khiến con người cảm nhận thế, nhưng tóm lại sẽ có những ngày vĩ nhân chẳng làm gì cả, họ đi ngủ, có thể là nằm mơ, có thể họ sẽ thức dậy ăn một trái táo và nghĩ mông lung về một điều gì đó - nhưng chúng hóa ra lại rất quan trọng trong tiến trình đời họ. Có rất nhiều những lỗ hổng, những khúc ngoặt nho nhỏ, những mật thất, những giấc mơ như thế trong cuộc đời của một con người, những phần mà sự thật dù dày một ngàn bốn trăm tám chục trang cũng không thể chạm đến. Và trên tư cách một người viết, tôi coi đó là những bộ phận thuyền đã han gỉ đến mức không rõ hình thù, rồi tôi thay chúng bằng những bộ phận trong tưởng tượng.
Có thể là, thậm chí không giúp người ta sáng tỏ hơn, những truyện ngắn trong cuốn sách này còn khiến bạn rối trí hơn. Nhưng nói cho cùng, tôi nghĩ điều ấy được phép, bởi con người không sinh ra để được hiểu, ngoài lề một chút, tôi nhận ra điều đó khi là một người hâm mộ ban nhạc The Beatles. Có đến hàng trăm cuốn sách về họ, và cứ mỗi năm lại xuất hiện những cuốn mới, những bài báo mới, tuyên bố rằng đây mới là sự thật tối hậu về The Beatles, nhiều đến mức dường như chẳng có sự thật nào hết. Và người ta hàng chục năm qua đã châu đầu vào nghiên cứu The Beatles mà có hiểu họ hết đâu? Vậy thì rõ ràng con người không sinh ra để được hiểu. Đó là thực tế quan trọng nhất đối với một người viết, tôi nghĩ vậy, và tôi vẫn luôn tự hỏi rằng liệu Dostoevsky vì lẽ gì để nhân vật Stavrogin trong Lũ người quỷ ám bỗng nhiên cắn tai một người? Cái hành động bột phát ấy dường như xuất phát từ một tầng sâu không thể đo đếm. Nhưng nó thoáng cho ta thấy một điều gì mà những lý luận của các triết gia hay sự thật của các nhà khoa học không thể cho ta thấy. Điều gì đó ấy có thể không quan trọng lắm đâu, nhưng chí ít, đó là thứ cảm xúc duy nhất mà chỉ văn chương mới có thể đem lại cho ta: sự khai sáng về sự mù mờ của thế giới.
Ba truyện cá nhân tôi ưng ý nhất trong tập sách này là: Đêm cứ rơi, cứ rơi (về Shakespeare), Đêm sau cái chết luôn là một đêm dài (về Elvis Presley), và Trong y, một tảng băng trôi (về Hemingway). Đặc biệt là truyện về Shakespeare, nó bắt nguồn từ câu hỏi tại sao Shakespeare, sau Đêm thứ mười hai (hay Muốn gọi là gì cũng được), không còn viết hài kịch nữa, chỉ viết bi kịch, và nếu còn viết hài kịch thì là những hài kịch đen tối? Và cả câu hỏi Shakespeare là ai? Có thật ông đã viết những tác phẩm này? Tôi kết nối chúng trong một sự thật khác, rằng ông là người đầu tiên trên thế giới viết ra hai tiếng “lonely” (cô đơn) (vâng, một từ nhưng hai tiếng). Tất cả còn lại, là trí tưởng tượng của tôi về những chuyến phiêu du của ông, về tuổi trẻ của ông, hay đúng hơn, sự thất lạc tuổi trẻ của ông.
Nếu còn điều gì muốn chia sẻ thêm về Dưới mái hiên đêm, những khách lạ, thì đó là tôi, trên tư cách một người luôn tin rằng âm nhạc, bằng cách không nói gì cả, lại nói được nhiều hơn ngàn vạn chữ nghĩa, đã cố gắng bằng mọi cách, để âm nhạc tràn vào cấu tứ của cuốn sách. Hãy coi như một giấc mơ hão huyền của tôi, là thông qua ngôn ngữ, tôi có thể tập tành nguệch ngoạc nên một giai điệu nào đó. Bởi tôi thực cho rằng, những kỹ thuật viết suy cho cùng đều rất tương thích với nhịp điệu một bản nhạc: những đoạn cao trào - fortissimo, và ngay sau đó, những rủ rỉ rù rì - pianissimo, những đoạn dồn dập mạnh dần chơi đùa với thần kinh - crescendo, những hố bí ẩn thoáng run lên rồi thoáng biến mất như chưa từng có gì xảy đến - tremolo...
Và phần trích nhập đề tựa đầu tiên mà tôi đã chép từ nhà soạn nhạc Felix Mendelssohn: “Ngôn từ, với tôi, thật khả nghi, thật mập mờ và thật dễ hiểu nhầm khi so cùng âm nhạc, thứ lấp đầy hồn ta bằng cả ngàn điều đẹp hơn ngôn từ.”
Theo Hiền Trang - Tia Sáng
(Đọc Áp tai vào đất, Lê Quang Trạng, Nxb Hội Nhà văn, 2017)
Nhà văn Nguyễn Thành Nhân (ảnh) được biết đến với tiểu thuyết Mùa xa nhà viết về những tháng năm anh làm nghĩa vụ quốc tế trên đất bạn Campuchia. Đây là tác phẩm đầu tay tạo được tiếng vang giúp anh tiến sâu hơn với nghề viết.
Chiều ngày 12/4, tại Bảo tàng Phụ nữ Việt Nam diễn ra tọa đàm giới thiệu hai cuốn tiểu thuyết “Phố Academy” ( tác giả Mary Costello, Hà Nguyễn dịch) và “Tuần lễ náu mình” (tác giả Maeve Binchy, Nguyễn Nhật Tuấn dịch) do Nhà xuất bản Phụ nữ cùng sự tài trợ của Đại sứ quán Ireland.
Tập sách 'Mỗi người một chỗ ngồi' mang phong vị văn chương "lạnh, sắc và tinh tế" của cây bút truyện ngắn tiêu biểu một thời.
Theo nhà nghiên cứu Trần Nhật Vy, đó là thời kỳ đầu của văn chương Sài Gòn gắn liền với thuở bình minh của báo chí chữ Quốc ngữ. Trần Nhật Vy đã tìm thấy nhiều tác phẩm có giá trị văn học sử trong quá trình nghiên cứu báo chí chữ Quốc ngữ cuối thế kỷ 19.
Nhà văn Vũ Hùng là tác giả của 40 đầu sách, trong đó có 2 tác phẩm được giải thường niên của Hội Nhà văn Việt Nam: truyện đồng thoại Sao Sao (1982) truyện ký Sống giữa bầy voi (1986).
Sau một gian nghiên cứu tìm tòi thể nghiệm, nhà văn Nguyên Hương vừa “trình làng” bộ ba “Tớ muốn đi cùng trời cuối đất” dành cho lứa tuổi học trò với cách viết mới mẻ, sử dụng yếu tố kì ảo khiến tác phẩm thêm phần cuốn hút.
“Bãi vàng và những chuyện tình nho nhỏ” bao gồm 15 truyện ngắn của nhà văn Ma Văn Kháng viết về tình yêu và thân phận người phụ nữ trong những cuộc tình trái ngang. Dưới ngòi bút của ông, tình yêu được miêu tả là “thuộc tính của những kẻ mang danh tính là con người,” (trích truyện ngắn “Bãi vàng”).
Truyện Linda Lê phản ánh thời biến động khó quên của một xứ sở, song hành hồi ức của một người đàn bà tâm thần, sống cô độc ở Paris.
Sáng nay (27/2), chuỗi sự kiện Ngày Thơ Việt Nam lần thứ XVI chính thức khởi động với hội thảo về thơ với chủ đề “Những vấn đề của thơ Việt Nam hiện nay” tại Hà Nội.
Ba cuốn sách của cố nhà văn Tô Hoài (“Giữ gìn 36 phố phường,” “Những ký ức không chịu ngủ yên” và “Người con gái xóm Cung”) chính thức ra mắt độc giả vào trong dịp đầu năm 2018.
“Giải thưởng sự nghiệp văn học” - một giải thưởng mới của Hội Nhà văn Việt Nam đã được trao cho nhà văn Vũ Hùng – cây viết đã bền bỉ dành cả cuộc đời mình để viết về trẻ em, muông thú, thiên nhiên.
Liên tiếp hai năm qua, Ma Văn Kháng trình làng 2 cuốn tiểu thuyết mới và mới đây một NXB cùng lúc phát hành 8 cuốn cả tiểu thuyết và truyện ngắn của cây bút có sức viết bền bỉ hàng hiếm ở Việt Nam. Nhưng Ma Văn Kháng liệu có còn phù hợp với đọc giả trẻ hôm nay, theo nhà phê bình Phạm Xuân Nguyên vẫn là “câu hỏi khó”. Còn nhà văn Nguyễn Khánh Tình nói “đọc Ma Văn Kháng, tâm hồn tôi dịu đi”.
Đầu năm 2018, nhiều tựa sách văn học nước ngoài thú vị được các nhà xuất bản trong nước giới thiệu tới độc giả Việt Nam.
Sáng 25/1, Hội Nhà văn Việt Nam đã chính thức công bố danh sách Giải thưởng Văn học Hội Nhà văn Việt Nam năm 2017.
Với 66 bài viết được chia làm 3 phần, cuốn sách “Như mây thong dong” của tác giả Lưu Đình Long do NXB Văn hóa - Văn nghệ và công ty Saigonbooks ấn hành là một trong những thông điệp đẹp và tình yêu và người trẻ hiện nay.
Tối 5/1, tọa đàm “Văn chương nói với ta điều gì về kẻ khác” được Bảo tàng thấu cảm và Khóa học mùa thu và phát triển (ASOD) đồng tổ chức nhằm hướng tới cái nhìn đa chiều và khoa học xung quanh vấn đề thấu cảm nói chung và vấn đề thấu cảm trong văn chương nói riêng.
Không hẹn mà gặp, gần như cùng một lúc NXB Kim Đồng cho ra mắt hai tập chân dung văn học “Đi tìm giấc mơ” của tác giả Trần Hoàng Thiên Kim và “Như cánh chim trong mắt của chân trời” của Văn Thành Lê.
Được viết từ trước năm 1975, bộ 3 tác phẩm truyện dài gồm “Áo tím qua đường”, “Mối tình như sương khói” và “Còn những bóng mưa tan” của nhà văn Từ Kế Tường về tình yêu tuổi mới lớn từng được đông đảo các thế hệ độc giả đón nhận.
Cảm nhận đầu tiên khi đọc “Văn nghệ Hà Nội những năm 1947 – 1954”, hồi ức - biên khảo của Lê Văn Ba (NXB Hội Nhà văn, 2017) là cuốn sách ngồn ngộn tư liệu và hấp dẫn. Lê Văn Ba có đủ điều kiện, hoàn cảnh và tư cách để làm việc này. Ông sống, sáng tác và hoạt động bí mật trong Hà Nội tạm chiếm, từng bị địch bắt và giam ở Nhà tù Hỏa Lò (hòa bình lập lại năm 1954 ông tròn 20 tuổi).