NGUYỄN PHÚ PHONG
Nhân đọc cuốn Văn học dân gian Bình Trị Thiên - CA DAO DÂN CA, Nhà xuất bản Thuận Hóa, Huế, 1988, tôi có mấy nhận xét sau đây gọi là góp ý.
Ảnh: internet
Nhận xét của tôi chia làm 3 loại: 1- chỉ liên quan đến cuốn CA DAO DÂN CA; 2- liên quan đến loại sách có tính cách phương thổ ngữ như cuốn CA DAO; 3- liên quan đến các vấn đề ngôn ngữ học.
1. Trang 55, bài 170, câu 2: viết là: bởi CHƯA giàu có... cần phải sửa lại là: Bởi CHƯNG giàu có...
Trang 87: viết là:... xế anh đi tàu HÀNG, phải sửa lại là:... xế anh đi tàu HÀN. Trong chú thích (2) cũng vậy! Hàng: Đà Nẳng, phải viết: HÀN: Đà Nẵng.
Trang 58: bắt ốc, THÁI rau, tôi nghĩ: HÁI rau thì đúng hơn vì HÁI đối bắt chỉnh hơn là THÁI – đầy một LOM, sửa lại đầy một LON - THÊ nô lệ, sửa lại: THUÊ nô lệ.
2. Cuốn sách có rất nhiều phương ngữ Bình Trị Thiên. Đó là đặc điểm và cũng là ưu điểm của nó. Tuy vậy đặc điểm và ưu điểm này chưa được khai thác triệt để và làm nổi bật lên. Muốn đạt đến mục đích này, chỉ cần làm mấy điều sau:
- Những từ nào thuộc phương ngữ BTT thì cho in chữ nghiêng tất cả, như vậy độc giả khỏi phải lầm lẫn.
- Đã là sách do cán bộ và sinh viên trường Đ.H.S.P. Huế chủ trương thì nên làm một phụ bản kê lại theo vần a b c những từ địa phương đã gặp trong sách với những lời giải thích thích đáng. Theo tôi, từ địa phương BTT chung qui chỉ có 2 loại:
+ Những từ thuộc vốn từ đặc biệt của BTT như trôốc "đầu"; chộ: "thấy" ; théc: "ngủ"...
Những từ thuộc vốn chung nhưng phát âm theo kiểu BTT nên thành ra từ BTT... tui: tôi, su: sâu, nác: nước...
Nếu làm được một phụ bản như vậy, thì rõ ràng là ngoài phần nội dung, các tác giả cuốn CA DAO còn miêu tả được tính độc đáo, bản sắc ngữ âm của phương ngữ BTT. Và cũng là một dịp cho sinh viên Huế, độc giả các nơi lưu ý, sưu tầm, nghiên cứu, giải thích ngữ ngôn của một vùng đất nước.
Trên phương diện làm cho rõ nét văn học dân gian BTT, cuốn CA DAO còn nhiều sơ sót hoặc vì vô ý, hoặc thiếu cái nhìn tổng quát nhất quán. Tôi xin nêu ra vài ví dụ:
- Nếu không vì nhu cầu hợp vần, thì tất cả những từ đâu phải đối lại là từ mô mới đúng tiếng BTT (trang 72, 77, 87...)
- Từ làm (tr.76) sửa lại mần mới đúng BTT.
- Tr.71, này phải sửa là ni.
- Tr.86, bao giờ đổi lại là mô chừ (trong câu: "Hình dung yểu điệu có đôi bao giờ", bao giờ có thể đổi lại thành răng chừ), vậy đổi là rứa.
- Tr.78, sao đổi lại là răng, tr.177, nào đổi lại là mô.
- Tr.88, 89 thật đổi là thiệt.
vân vân và vân vân.
3. Từ địa phương nỏ (tr.102) phải viết là nõ mới đúng. Tại sao vậy? Vấn đề này phải giải thích theo ngữ âm học. Ai cũng biết là tiếng Việt Nam miền Bắc (vùng Hà Nội chẳng hạn) có 6 thanh. Trái lại một số phương ngữ rất lớn miền Nam, trong ấy có BTT, chỉ có 5 thanh vì không phân biệt hai thanh hỏi, ngã. Câu hỏi được đặt ra là trường hợp 2 thanh? và ~ nhập làm một thì phải ghi bằng ký hiệu nào:? hay ~. Theo tôi thì ghi bằng dấu ngã (~). Vì sao? Vì trong hiện tình tiếng Việt, những từ mang dấu ngã được phát âm với đặc tính của một thanh trắc gãy cao và trong những địa phương mà có sự sát nhập của hai thanh hỏi và ngã riêng biệt thành một thanh /hỏi-ngã/ chung thì thanh /hỏi-ngã/ chung nào có đặc tính của một thanh trắc gãy cao và vì thế phải được ghi bằng dấu ~(ngã). Có thể nói là trong tiếng Việt từ BTT trở vào Nam, không làm gì còn thanh trắc gãy (thuộc âm vực) thấp nữa và như thế trong chữ viết để ghi những từ địa phương của vùng này, dấu hỏi (?) bị loại trừ vì không có tương ứng trong phát âm. Vì vậy trong phương ngữ BTT không làm gì có từ nỏ mà chỉ có thể có từ nõ thôi.
Qua những nhận xét trên, những chữ như ổng (nghĩa là ông ấy), bả (nghĩa là bà ấy) dùng để ghi lại những từ địa phương trong Nam đều viết sai cả. Nhưng cái sai này có lý do lịch sử của nó. Nguyên là có sự đảo ngược ở thế đối lập hai thanh hỏi và ngã:
Hệ thống thanh trước đây:
âm vực
cao |
x ø |
/ |
? |
thấp |
\ |
. |
~ |
Hệ thống thanh trước đây:
âm vực
cao |
ø |
/ |
~ |
thấp |
x \ |
. |
? |
(X) ø: thanh ngang không có dấu ghi.
Vì có sự đảo lộn âm vực giữa hai thanh hỏi và ngã nên mới có sự ghi lầm ỗng thành ổng, bã thành bả như trên chứ trong phương ngữ miền Nam không làm gì có những từ mang dấu hỏi nữa. Tôi e những người viết những chữ như ổng, bả căn cứ trên hệ thống thanh điệu của tiếng Việt trước đây rất lâu, chứ không dựa vào thế đối lập của hệ thống này để ghi một hiện tượng ngữ âm đã nằm trong một thế đối lập mới.
Trên đây, tôi chỉ ghi lại mấy ý kiến nhân đọc qua một cách có hệ thống cuốn CA DAO DÂN CA của NXB Thuận Hóa. Gọi là góp phần vào sự tìm hiểu tiếng Việt của một người ở xa đất nước, mà người ta quen gọi là Việt kiều.
N.P.P
(Đại học Paris 7)
(TCSH39/09&10-1989)
PHAN TRỌNG HOÀCó thể khảo sát nghĩa của tục ngữ từ góc độ văn bản hoặc góc độ ứng dụng. Ở nước ta, việc nghiên cứu nghĩa của tục ngữ trong quá trình sử dụng không phải là một vấn đề mới mẻ, nhưng so với xu hướng này thì việc nghiên cứu nghĩa của tục ngữ ở trạng thái ổn định trên văn bản đạt được nhiều thành tựu đáng kể. Thật khó khẳng định rằng trong hai cách xem xét trên thì cách nào là quan trọng hơn, vì nó không chỉ phụ thuộc vào đặc trưng thể loại của đối tượng được nghiên cứu mà nhiều khi còn tuỳ thuộc vào mục đích, yêu cầu của từng loại đề tài và nói chung là tuỳ thuộc vào nhu cầu của hoạt động thực tiễn. Điều đáng lưu tâm là ở chỗ, khi mình đã lựa chọn hướng tiếp cận này thì đừng vì thế mà phủ nhận hướng tiếp cận kia.
TRẦN ANH PHƯƠNGĐi chơi gặp vịt cũng lùagặp duyên cũng kết gặp chùa cũng tu (Ca dao)
VIỆT CHUNGTrong 12 con giáp, con dê (Mùi còn gọi là Vị) là con vật đứng vào hàng thứ 8, trước khỉ và sau ngựa. Dê tên chữ là Dương.Dê vốn là con vật miền núi, được thuần hoá nên có thể nuôi trong nhà. Hình ảnh con dê gây được những ấn tượng với người đời một cách khó quên. Đặc biệt của loài dê là dê đực hoặc dê cái đều có râu và có sừng, bản chất hiền lành và tràn đầy sinh lực.
TRIỀU NGUYÊNHiện tượng cùng âm xảy ra khi cùng một tổ hợp âm thanh nhưng có nhiều ý nghĩa khác nhau tương ứng, trong cùng một ngữ cảnh. Câu đối chơi chữ theo cách cùng âm có thể chia làm hai loại: lặp nhiều từ ngữ cùng âm trên cùng một văn bản ngắn; dùng một tổ hợp để biểu thị hai từ ngữ cùng âm; đồng thời, dạng cùng âm có yếu tố tên riêng cũng được xét như một loại đặc biệt.
PHẠM THỊ ANH NGATheo quan niệm thông thường, phép lịch sự bao giờ cũng có tính ưu đãi đối với tha nhân: dành cho kẻ khác một tầm quan trọng và thái độ trân trọng hơn là đối với chính bản thân. Nhưng cũng tuỳ từng nền văn hoá, mà giữa hai bên tương tác có sự cân bằng tương đối về vai vế hay không. C. Kerbrat-Orecchioni phân biệt: (1) Những xã hội ở đó quyền lợi giữa hai bên giao tiếp tương đối ngang nhau; (2) Những xã hội xem đối tượng tương tác (A: allocutaire) có được nhiều quyền ưu tiên hơn bản thân người tương tác (L : locuteur).
TRIỀU NGUYÊN1. Câu tục ngữ "Ẵm con chồng hơn bồng cháu ngoại" được sách Kho tàng tục ngữ người Việt (Nguyễn Xuân Kính (chủ biên), Nguyễn Thuý Loan, Phan Lan Hương, Nguyễn Luân; Nxb Văn hoá thông tin, Hà Nội, 2002) (KT), tr 75, ghi lại, trên cơ sở 12 đầu sách có chép nó.
NGUYỄN ĐỨC TĂNGCũng như ca dao, những câu hò trong dân gian thuộc loại văn chương bình dân nên rất phổ cập trong dân chúng. Tác giả của nó có thể là những nhà thơ dân gian, thường không lưu lại tên tuổi như những nhà thơ của văn học thành văn, nhưng cũng đóng góp đời mình vào sự phát triển của ngôn ngữ thơ ca trong lãnh vực văn chương bình dân.
TÔ VĨNH HÀNhỏ nhất như con chuột và kiêu dũng nhất như con rồng, mười hai con giáp trong lịch can - chi vẫn mãi thôi thúc lẽ nghĩ suy của muôn vạn kiếp đời trong cái nghiệp tận hằng của sự hiểu và cả “sự” làm người.
TRẦN ĐÌNH SỬNgười mù đều rất đôngTranh nhau nói sự thậtVoi vốn chỉ một thânThị phi lại bất đồng…
TRIỀU NGUYÊNI. Khái quátXem xét cách sử dụng hình ảnh của một thể loại văn học là yêu cầu cần có khi tiếp cận thể loại ấy. Tình hình nghiên cứu thể loại câu đố có nhiều hạn chế so với các thể loại khác của văn học dân gian, trong đó, có vấn đề hình ảnh.
TRIỀU NGUYÊN
TRẦN NGUYỄN KHÁNH PHONGCho đến nay, đã có các công trình sưu tầm và biên soạn truyện cổ Tà Ôi khá đầy đặn về văn bản. Qua các công trình nầy chúng ta thấy rằng người Tà Ôi sinh sống trên dãy Trường Sơn, quần cư chủ yếu trên địa bàn hai tỉnh Quảng Trị và Thừa Thiên Huế đang lưu giữ một kho tàng tri thức phong phú về văn học dân gian mà trong đó thể loại An xoar (chuyện cổ tích) là một thí dụ điển hình.
TRẦN NGUYỄN KHÁNH PHONGNgười Tà Ôi ở Việt Nam thật sự đã có một kho tàng văn học dân gian rất phong phú với các thể loại: Ca dao (Pracăm), câu đố (Pralau), truyện cổ dân gian (Axoar), tục ngữ và dân ca.
TRIỀU NGUYÊN Chùm Truyện ngụ ngôn
HẢI TRUNGVào thời Hán, ở Trung Quốc, có một vị tướng tên là Đậu Thao, do phạm trọng tội nên bị vua Hán đày biệt xứ ra biên ải. Vợ của tướng quân này là Tô Huệ là một phụ nữ bình dân sống bằng nghề dệt lụa. Từ ngày Đậu Thao bị đày ra biên ải, ngày đêm vò võ ngóng tin chồng, nhưng ngày tháng cứ nối nhau qua mãi mà vẫn biệt âm vô tín.
TRIỀU NGUYÊN 1.Trong cấu tạo nhan đề của thơ văn Hán Nôm, ở dạng danh ngữ, có hai hình thức thường gặp: danh từ trung tâm biểu thị thể loại (như: Hịch tướng sĩ văn - Trần Quốc Tuấn, Ngọc tỉnh liên phú - Mạc Đỉnh Chi, Thượng kinh kí sự - Lê Hữu Trác, Hoàng Lê nhất thống chí - Ngô Gia văn phái, Hạ Châu tạp thi - Cao Bá Quát,...).
TRIỀU NGUYÊN(tiếp theo)