Vài ý kiến nhân đọc cuốn 'Văn học dân gian Bình Trị Thiên'

09:24 18/03/2016

NGUYỄN PHÚ PHONG

Nhân đọc cuốn Văn học dân gian Bình Trị Thiên - CA DAO DÂN CA, Nhà xuất bản Thuận Hóa, Huế, 1988, tôi có mấy nhận xét sau đây gọi là góp ý.

Ảnh: internet

Nhận xét của tôi chia làm 3 loại: 1- chỉ liên quan đến cuốn CA DAO DÂN CA; 2- liên quan đến loại sách có tính cách phương thổ ngữ như cuốn CA DAO; 3- liên quan đến các vấn đề ngôn ngữ học.

1. Trang 55, bài 170, câu 2: viết là: bởi CHƯA giàu có... cần phải sửa lại là: Bởi CHƯNG giàu có...

Trang 87: viết là:... xế anh đi tàu HÀNG, phải sửa lại là:... xế anh đi tàu HÀN. Trong chú thích (2) cũng vậy! Hàng: Đà Nẳng, phải viết: HÀN: Đà Nẵng.

Trang 58: bắt ốc, THÁI rau, tôi nghĩ: HÁI rau thì đúng hơn vì HÁI đối bắt chỉnh hơn là THÁIđầy một LOM, sửa lại đầy một LON - THÊ nô lệ, sửa lại: THUÊ nô lệ.

2. Cuốn sách có rất nhiều phương ngữ Bình Trị Thiên. Đó là đặc điểm và cũng là ưu điểm của nó. Tuy vậy đặc điểm và ưu điểm này chưa được khai thác triệt để và làm nổi bật lên. Muốn đạt đến mục đích này, chỉ cần làm mấy điều sau:

- Những từ nào thuộc phương ngữ BTT thì cho in chữ nghiêng tất cả, như vậy độc giả khỏi phải lầm lẫn.

- Đã là sách do cán bộ và sinh viên trường Đ.H.S.P. Huế chủ trương thì nên làm một phụ bản kê lại theo vần a b c những từ địa phương đã gặp trong sách với những lời giải thích thích đáng. Theo tôi, từ địa phương BTT chung qui chỉ có 2 loại:

+ Những từ thuộc vốn từ đặc biệt của BTT như trôốc "đầu"; chộ: "thấy" ; théc: "ngủ"...

Những từ thuộc vốn chung nhưng phát âm theo kiểu BTT nên thành ra từ BTT... tui: tôi, su: sâu, nác: nước...

Nếu làm được một phụ bản như vậy, thì rõ ràng là ngoài phần nội dung, các tác giả cuốn CA DAO còn miêu tả được tính độc đáo, bản sắc ngữ âm của phương ngữ BTT. Và cũng là một dịp cho sinh viên Huế, độc giả các nơi lưu ý, sưu tầm, nghiên cứu, giải thích ngữ ngôn của một vùng đất nước.

Trên phương diện làm cho rõ nét văn học dân gian BTT, cuốn CA DAO còn nhiều sơ sót hoặc vì vô ý, hoặc thiếu cái nhìn tổng quát nhất quán. Tôi xin nêu ra vài ví dụ:

- Nếu không vì nhu cầu hợp vần, thì tất cả những từ đâu phải đối lại là từ mới đúng tiếng BTT (trang 72, 77, 87...)

- Từ làm (tr.76) sửa lại mần mới đúng BTT.

- Tr.71, này phải sửa là ni.

- Tr.86, bao giờ đổi lại là mô chừ (trong câu: "Hình dung yểu điệu có đôi bao giờ", bao giờ có thể đổi lại thành răng chừ), vậy đổi là rứa.

- Tr.78, sao đổi lại là răng, tr.177, nào đổi lại là .

- Tr.88, 89 thật đổi là thiệt.
vân vân và vân vân.

3. Từ địa phương nỏ (tr.102) phải viết là mới đúng. Tại sao vậy? Vấn đề này phải giải thích theo ngữ âm học. Ai cũng biết là tiếng Việt Nam miền Bắc (vùng Hà Nội chẳng hạn) có 6 thanh. Trái lại một số phương ngữ rất lớn miền Nam, trong ấy có BTT, chỉ có 5 thanh vì không phân biệt hai thanh hỏi, ngã. Câu hỏi được đặt ra là trường hợp 2 thanh? và ~ nhập làm một thì phải ghi bằng ký hiệu nào:? hay ~. Theo tôi thì ghi bằng dấu ngã (~). Vì sao? Vì trong hiện tình tiếng Việt, những từ mang dấu ngã được phát âm với đặc tính của một thanh trắc gãy cao và trong những địa phương mà có sự sát nhập của hai thanh hỏi và ngã riêng biệt thành một thanh /hỏi-ngã/ chung thì thanh /hỏi-ngã/ chung nào có đặc tính của một thanh trắc gãy cao và vì thế phải được ghi bằng dấu ~(ngã). Có thể nói là trong tiếng Việt từ BTT trở vào Nam, không làm gì còn thanh trắc gãy (thuộc âm vực) thấp nữa và như thế trong chữ viết để ghi những từ địa phương của vùng này, dấu hỏi (?) bị loại trừ vì không có tương ứng trong phát âm. Vì vậy trong phương ngữ BTT không làm gì có từ nỏ mà chỉ có thể có từ thôi.

Qua những nhận xét trên, những chữ như ổng (nghĩa là ông ấy), bả (nghĩa là bà ấy) dùng để ghi lại những từ địa phương trong Nam đều viết sai cả. Nhưng cái sai này có lý do lịch sử của nó. Nguyên là có sự đảo ngược ở thế đối lập hai thanh hỏi và ngã:

Hệ thống thanh trước đây:

âm vực

cao

x ø

/

?

thấp

\

.

~


Hệ thống thanh trước đây:

âm vực

cao

ø

/

~

thấp

x \

.

?

(X) ø: thanh ngang không có dấu ghi.

Vì có sự đảo lộn âm vực giữa hai thanh hỏi và ngã nên mới có sự ghi lầm ỗng thành ổng, thành bả như trên chứ trong phương ngữ miền Nam không làm gì có những từ mang dấu hỏi nữa. Tôi e những người viết những chữ như ổng, bả căn cứ trên hệ thống thanh điệu của tiếng Việt trước đây rất lâu, chứ không dựa vào thế đối lập của hệ thống này để ghi một hiện tượng ngữ âm đã nằm trong một thế đối lập mới.

Trên đây, tôi chỉ ghi lại mấy ý kiến nhân đọc qua một cách có hệ thống cuốn CA DAO DÂN CA của NXB Thuận Hóa. Gọi là góp phần vào sự tìm hiểu tiếng Việt của một người ở xa đất nước, mà người ta quen gọi là Việt kiều.

N.P.P
(Đại học Paris 7)
(TCSH39/09&10-1989)





 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • TRỊNH SÂM

    Trải qua biết bao thời đại, mèo đã trở thành con vật quen thuộc trong mỗi gia đình Việt Nam.

  • NGUYỄN ĐỨC DƯƠNG

    Làm thế nào để biết một biểu thức ngôn từ [BTNT] do dân gian sáng tác ra là một đơn vị tục ngữ? Chứ không phải là thành ngữ hay ca dao? Mục đích chính của bài này là đi tìm một câu trả lời thỏa đáng cho mấy câu hỏi vừa nêu.

  • NGUYỄN ĐỨC DÂN Có một giai thoại về Nguyễn Khuyến như sau: Làng Cổ Ngựa có ngôi đền thờ thánh mẫu thu hút khá nhiều người đến lễ bái. Nhằm kiếm chác đám người mê tín, hào lý trong làng xuất quỹ xây lại đền to hơn, đẹp hơn.

  • Mai Văn Tấn tên thật là Mai Văn Kế. Sinh ngày 12-9-1931 tại Lệ Ninh Bình Trị Thiên. Hội viên Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam. Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam.

  • THANH TRẮC NGUYỄN VĂN1. Tiểu Hổ gặp họa

  • TRẦN NGUYỄN KHÁNH PHONGTừ trước đến nay, không có lễ tục nào được nhắc đến nhiều trong truyện cổ của người Pacô bằng tục Pộôc xu (Đi sim), đây là một nét văn hóa truyền thống từ xưa của người Pacô. Mặc dầu đến nay do lối sống hiện đại nên nhiều nét văn hóa truyền thống mất đi, song không vì thế mà chúng ta quên nó. Đâu đó trong cuộc sống cộng đồng của người Pacô ngày nay vẫn còn nhiều câu chuyện kể về tục này. Nhân dịp xuân về xin được nêu ra đây nét đẹp trong lễ tục quan trọng đó.

  • L.T.S: Dân tộc Kơ-tu là một trong bốn dân tộc sống ở tỉnh Bình Trị Thiên, tập trung ở vùng Nam Đông, huyện Phú Lộc. Trước đây dân tộc Kơ-tu đã sát cánh cùng các lực lượng giải phóng tiến hành cuộc đấu tranh anh dũng chống lại bè lũ Mỹ ngụy. Ngày nay, dân tộc Kơ-tu đang vững bước đi lên trong công cuộc lao động sản xuất, xây dựng cuộc sống mới. Cũng như các dân tộc khác, người Kơ-tu không chỉ anh dũng trong chiến đấu, cần cù sáng tạo trong lao động sản xuất mà còn có một nền văn nghệ dân gian rất phong phú và độc đáo. Bài viết sau đây là một nét phác họa trong chương trình giới thiệu nền văn học dân gian các dân tộc ít người ở tỉnh Bình Trị Thiên của chúng tôi.

  • VĨNH QUYỀNTừ lâu điều kiện thiên nhiên cũng như điều kiện xã hội đều thuận lợi cho mối quan hệ giữa hai dòng thơ ca dân gian Bình Trị Thiên và Quảng Nam.

  • NGUYỄN TIẾN VĂNMột trong những câu ca dao rất thông dụng phổ biến nhưng không phải là đơn giản và dễ nắm bắt nội dung: “Không chồng mà chửa mới ngoan/ Có chồng mà chửa thế gian sự thường”. Ở đây mắt của câu này là chữ ngoan. Vậy ngoan là gì?

  • VĨNH QUYỀNMười hai con giáp, chuột đứng hàng đầu. Kể cũng lạ?Hình dạng bé nhỏ xấu xí, phẩm cách hèn hạ đáng khinh, thế mà chuột được người xưa xếp trước cả những con vật uy mãnh như hổ, linh hiển như rồng. Đã thế, năm Tý – với biểu tượng con chuột, còn là năm đầu của một kỷ, chu kỳ 60 năm.

  • LƯƠNG ANCũng như nhiều vùng khác trên đất nước Việt Nam, ở Bình Trị Thiên chúng ta, các danh lam hoặc các ngọn núi cao, các dòng sông lớn thường có một truyền thuyết dân gian dính với nguồn gốc của nó. Sông Thạch Hãn, con sông lớn nhất vùng Quảng Trị cũ, cũng vậy.

  • TRIỀU NGUYÊN1. Khái quátSở dĩ người nghe (đọc) truyện cười phát ra được tiếng cười, bởi vì lí trí, tình cảm của họ gặp phải điều không bình thường: thay vì họ tưởng cuối cùng nhân vật sẽ nói, sẽ làm điều “A”, thì hoá ra nhân vật đã nói, làm điều “B”, thậm chí “không A”. Tức trí tuệ, cảm xúc đã không lường trước, đã bị đánh lạc hướng trước đối tượng đang quan tâm. Và thông thường, càng lạ lẫm, bất ngờ, tiếng cười càng sảng khoái, thú vị.

  • VĂN NHĨĐường Trường Sơn huyền thoại đã đi vào sử thi như một bản anh hùng ca của thời đại Hồ Chí Minh. Nhiều bài thơ, bài hát viết về Trường Sơn đã vượt qua biên độ của thời gian mãi mãi rung động lòng người.

  • LAN PHƯƠNGKho tàng âm nhạc dân gian của dân tộc Thái vùng Tây Bắc rất phong phú và đa dạng. Bất cứ nơi đâu trong bản làng của người Thái đều có thể thấy có các làn điệu dân ca thể hiện rõ phong cách riêng của mỗi vùng mà nguyên nhân do sự truyền lại cho các thế hệ theo cách cảm thụ và rung động riêng của mỗi nghệ nhân. Trong đó không thể thiếu tiếng cây đàn tính tẩu.

  • TRIỀU NGUYÊN1. Một bộ phận truyện cổ tích sinh hoạt có yếu tố tạo ra tiếng cười đã bị nhầm lẫn là truyện cười. Sự nhầm lẫn này đã xảy ra ngay cả với những sách sưu tập được cho là nghiêm túc.

  • TRIỀU NGUYÊN Trong những dịp cúng lễ, lễ lạt, hiếu hỉ, và đặc biệt là vào dịp Tết, rượu thường được nhắc đến, và có khi trở thành quan trọng hàng đầu: "Vô tửu bất thành lễ".

  • TRIỀU NGUYÊNCó một số bài ca dao dùng hình ảnh "đèn hạnh", xin dẫn ra dưới đây ít bài:(1)           Đêm khuya đèn hạnh thắp lên,                Vì chưng thương nhớ cho nên đi tìm.

  • PHAN XUÂN QUANGĐồng Tranh là một làng nổi tiếng trù phú một thời ở Quảng Nam. Làng này hiện còn lưu truyền một câu đối cổ có liên quan đến làng Gia Hội, Huế:Văn Đồng Tranh, võ Đồng Tranh, văn võ Đồng Tranh long hổ bảngQuân Gia Hội, thần Gia Hội, quân thần Gia Hội phụng hoàng trì.Câu đối này còn một số dị Bản, có khác một đôi chữ nhưng câu trên đây theo nhiều người là chính nhất và phổ biến hơn cả.

  • TRIỀU NGUYÊN  Từ ngữ cùng nghĩa là những từ ngữ gần nhau về ý nghĩa, nhưng khác nhau về âm thanh. Có ba kiểu cùng nghĩa trong tiếng Việt, là cùng nghĩa giữa từ ngữ thuần Việt (TV) với từ ngữ thuần Việt, cùng nghĩa giữa từ ngữ thuần Việt với từ ngữ Hán Việt (HV), và cùng nghĩa giữa từ ngữ Hán Việt với từ ngữ Hán Việt. Câu đối chơi chữ theo cách cùng nghĩa, có hai hình thức: tạo các từ ngữ cùng nghĩa xuất hiện trên cùng một văn bản ngắn; và cách cùng nghĩa có kết hợp với các hình thức chơi chữ khác.