Vài trao đổi về cuốn Văn học Việt Nam sau 1975 - những vấn đề nghiên cứu và giảng dạy(*) (hay góp lời bàn về thơ cách tân đương đại)

16:53 12/05/2009
HOÀNG ĐĂNG KHOA Văn học Việt từ sau 1975, nhất là từ thời kỳ đổi mới, là một quá trình văn học rất phong phú, đa dạng và không ít phức tạp, lại còn đang tiếp diễn. Cuốn sách Văn học Việt Nam sau 1975 - Những vấn đề nghiên cứu và giảng dạy ra đời đáp ứng nhu cầu mang tính thời sự: nhu cầu nhìn nhận, đánh giá một cách khách quan, toàn diện về tiến trình văn học ba mươi năm qua, chuẩn bị cho sự ra đời của những công trình văn học sử và những chuyên khảo về giai đoạn văn học này.

Cuốn sách tập hợp những bài viết của nhiều tác giả tên tuổi, về những vấn đề nổi cộm của văn học Việt Nam sau 1975, từ lý luận, nghiên cứu đến sáng tác, tiếp nhận - phê bình với những cách tiếp cận, những góc nhìn đa dạng, nhiều phát hiện và đánh giá mới, cả trên phương diện tổng quát cũng như trên những vấn đề và sự kiện văn học cụ thể được dư luận đặc biệt quan tâm.

Có thể khẳng định, đây là một cuốn sách quý, chất lượng, đặc biệt hữu ích cho việc nghiên cứu, giảng dạy văn học Việt Nam sau 1975 trong nhà trường, từ phổ thông đến đại học. Những ai quan tâm nghiên cứu, tìm hiểu về vấn đề liên quan đến văn học Việt Nam sau 1975 đều có thể tìm gặp trong cuốn sách này nhiều gợi mở quý báu, ít nhất là về mặt phương pháp luận.
Tuy nhiên, đây đó trong một số ít bài viết, có luận điểm, cách diễn đạt chưa thật sự làm bằng lòng người đọc khó tính.

Trong bài: "Một số vấn đề cơ bản trong nghiên cứu lịch sử văn học Việt Nam giai đoạn từ sau 1975", tác giả Nguyễn Văn Long khi bàn về sự đổi mới và những đặc điểm của thể loại thơ, sau khi cho rằng thơ từ sau 1975 “xuất hiện nhiều dạng thức mới của cái tôi”, đó là “cái tôi thế sự với những cảm xúc khác, những nỗi buồn, sự lo âu, tâm trạng xót xa, day dứt trước hiện trạng xã hội, nhân thế”, đó là cái tôi “đào xới tận cùng bản thể”, cái tôi “được khai thác ở mọi bình diện, tầng bậc, trong mọi mối quan hệ”, đã viết: “Trong những xu hướng hiện đại chủ nghĩa, lại xuất hiện quan niệm khác về cái tôi, về chủ thể. Khi đề cao lối viết tự động, quan niệm “làm thơ là làm chữ”, cái tôi cũng bị xóa mờ đi, để vai trò của chữ nổi bật lên và các chữ trong bài thơ như là tự nó tạo ra mọi tác động đến độc giả” (tr.24).
Theo tôi, viết như vậy là chưa thỏa đáng.

Thứ nhất, ở đây, Nguyễn Văn Long đã “hẹp hóa” nội hàm của khái niệm cái tôi. Cái tôi, trong sáng tạo thơ nói riêng, ngoài nghĩa là cái tôi nội cảm, trĩu nặng cảm xúc, sâu thẳm nỗi niềm, tự phơi trải, còn được hiểu là phong cách cá nhân, là cá tính sáng tạo đơn nhất, không lặp lại của chủ thể. Nếu hiểu cái tôi theo nghĩa đầy đủ này thì khi đề cao lối viết tự động, quan niệm “làm thơ là làm chữ”, cái tôi không thể bị xóa mờ đi như Nguyễn Văn Long nói, ngược lại, cái tôi với nghĩa là phong cách, là cá tính sáng tạo lại càng được tô đậm, khắc dấu hơn bao giờ hết. Văn chương, sản phẩm của sáng tạo, một trong những giá trị đích thực của nó là sự khác biệt. Một khi đã quan niệm “làm thơ là làm chữ”, là “lao động chữ”, nhà thơ là “phu chữ” thì người “phu chữ” kia sáng tạo ra cái gì nếu không phải là những chữ mới lạ, khác biệt, mà sáng tạo ra những chữ mới lạ, khác biệt kia để làm gì nếu không phải là để khẳng định phong cách, cá tính sáng tạo, khẳng định cái tôi nghệ sĩ của mình?

Thứ hai, nếu ta tạm chấp nhận cách hiểu theo nghĩa không đầy đủ của Nguyễn Văn Long, rằng cái tôi chỉ là cái tôi nội cảm thì liệu khi đề cao lối viết tự động, quan niệm “làm thơ là làm chữ”, cái tôi (nội cảm) này có bị “xóa mờ đi, để vai trò của chữ nổi bật lên và các chữ trong bài thơ như là tự nó tạo ra mọi tác động đến độc giả” hay không? Thơ bao giờ cũng đi ra từ cái tôi sâu thẳm, là sự ngân rung của một trạng huống cảm xúc đặc biệt của thi sĩ. Và chữ chính là trạng huống cảm xúc đặc biệt ấy được tượng hình, vật chất hóa. Chữ chỉ có thể nổi bật lên vai trò của mình và tự nó tạo ra mọi tác động đến độc giả khi và chỉ khi nó thấm đẫm, trĩu nặng cảm xúc, tư tưởng của chủ thể sáng tạo ra nó, chứ hoàn toàn không thể khi nó rỗng nghĩa, vô cảm, vô hồn. Một khi “phu chữ” có thể “làm chữ" được như thế thì cái tôi không phải bị xóa mờ đi, mà cái tôi (nội cảm) lúc này đã lặn sâu vào chữ, làm cho chữ cựa quậy trên chiều “năng nghĩa” (chữ dùng của Dương Tường), sản sinh, tái tạo nghĩa không ngừng.

Thứ ba, không thể đồng nhất “quan niệm làm thơ là làm chữ” với việc “đề cao lối viết tự động” được. Hai vấn đề này tự nó đã mâu thuẫn với nhau. Một khi đã chủ trương viết tự động thì sao lại quan niệm làm thơ là “làm chữ”, là "lao động chữ”, sao lại gọi nhà thơ là “phu chữ”? Theo tôi, nói “viết tự động” là nói chuyện nội dung, nghĩa là quan niệm, thơ không chỉ là sản phẩm của ý thức, lý trí mà có khi là sản phẩm của những khoảnh khắc lóe sáng, “vụt hiện” của vô thức. Câu thơ, bài thơ là sự ú ớ của vô thức nên có thể không “tải” thông điệp rõ ràng, nhưng nó lại từ chối cách hiểu áp đặt chủ quan, suy diễn gò ép hiện thực của lý trí ráo hoảnh. Còn nói “làm thơ là làm chữ" là nói chuyện hình thức, có nghĩa là chữ của thơ không là những chữ quen thuộc đến nhàm mòn, sáo rỗng được dùng một cách tùy tiện, dễ dãi mà phải là những chữ được lạ hóa, ám dụ người đọc cùng sản sinh nghĩa.

Trong bài “Đôi điều suy nghĩ về văn hóa đọc thơ hôm nay” của tác giả Đặng Thu Thủy cũng có nhiều đoạn lập luận, diễn đạt, theo tôi là không thỏa đáng.

Ở tr.431, tác giả viết: “...Thực tế đã cho thấy, sự cố gắng, thậm chí xả thân vì nghệ thuật của anh rồi cũng chẳng ích gì nếu anh một mình đơn độc. Anh không thể thay thế độc giả mà quyết định vận mệnh của thơ mình”.  Đúng, sáng tạo nên tác phẩm là việc của cá nhân mỗi nhà thơ, nhưng ngoài giá trị tự thân của tác phẩm, độc giả là người có vai trò quyết định giá trị đích thực của tác phẩm đó. Nhưng tôi nghĩ, nhà thơ “chỉ một mình đơn độc" khi anh bất tài, khi sự cố gắng, xả thân của anh rốt cục chỉ cho ra những thứ phi nghệ thuật, phản thơ mà thôi. Nghĩa là, ví như nói như Nguyễn Đăng Điệp, thơ anh chỉ đi ra từ cái tôi bé nhỏ, dị biệt của anh mà không đủ sức cộng hưởng với khách tri âm, không ôm chứa được hơi thở của thời đại; ví như anh cứ lai căng tiếp nhận tùy tiện những thứ bên ngoài mà không có màng lọc văn hóa, màng lọc tinh thần dân tộc để tinh tuyển; ví như anh cứ hô hào làm chữ để chỉ cho ra những chữ rỗng nghĩa, vô hồn... Độc giả của một tác phẩm văn học luôn ở số đông với đủ mọi tầm đón nhận, cách đọc, vì thế không việc gì phải nơm nớp sợ họ bỏ sót những tác phẩm của mình, nếu nó hay thực sự. Nói như Trần Mạnh Hảo, thơ ca, khi nó đã đạt được đến cái hay, nó còn lại, đến thời gian mà nó còn không sợ nữa, huống hồ vài ba lời phủ định vu vơ.

Cũng ở tr.431, tác giả viết: “Những thử nghiệm tìm tòi của nhóm Xuân Thu nhã tập, của Trần Dần, Lê Đạt, của Nguyễn Đình Thi,... đều trở thành lạc lõng và nhanh chóng đi đến hồi kết thúc bởi thiếu một văn hóa đọc thơ tương ứng. Để rồi mấy chục năm sau, nó lại được thử nghiệm lại. Nhưng rồi cái chung cục của nó có khác xưa?”. Không phải những thử nghiệm tìm tòi thơ rốt cục đều “trở thành lạc lõng và nhanh chóng đi đến hồi kết thúc bởi một văn hóa đọc thơ tương ứng” như tác giả viết. Những thủ lĩnh cách tân thơ như Trần Dần, Lê Đạt, Đặng Đình Hưng,... không hẳn “lạc lõng” vì bên cạnh họ vẫn có những bạn đọc ghi nhận những thành công nhất định của họ. Những thử nghiệm của họ trên thực tế cũng không có chuyện “nhanh chóng đi đến hồi kết thúc”. Sau sự cố “Nhân văn giai phẩm”, họ chỉ tạm ngừng quyền công bố tác phẩm mà thôi chứ quyền sáng tạo của họ, tư cách nghệ sĩ của họ thì không có thế lực nào có thể tước đoạt nổi. Họ vẫn cứ đi tận cùng con đường mình đã đi, và ý thức cách tân của họ, những thành công nhất định của họ đã và đang được thừa nhận. Trần Dần, Lê Đạt đã được trao tặng giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật đó thôi.

Ở tr.432, khi nói về tinh thần “dân chủ chữ”, tinh thần Freud “nổi loạn” thành thực phơi trải đam mê bản năng của thơ trẻ, tác giả viết: “Cái gốc rễ khiến thơ bùng phát không phải là những chiêm nghiệm của lý trí, tư duy mà trước hết là của bản năng người”. Theo tôi, câu nói của Tố Hữu "Thơ chỉ tràn ra trong tim ta khi cuộc sống đã thật đầy” vẫn chưa hề lỗi thời. Cái gốc rễ của thơ trước hết là bản năng người chỉ khi đó là bản năng thèm sống, khát sống, sống “đủ đầy và mãnh liệt” với những cảm giác rất người. Cái gốc rễ này phải xuyên qua màng lọc “lý trí, tư duy”, “chiêm nghiệm" đến độ có khả năng tự bốc cháy thành cảm xúc thì mới có thể vật chất hóa thành cái gọi là thơ, thơ đích thực được.

Cũng ở tr.432, tác giả viết: “Các nhà thơ trẻ đã xác lập trở lại những giá trị đã bị đánh mất của thơ, trong đó đáng chú ý nhất là ngôn ngữ. Thơ ta thường coi ngôn ngữ như một phương tiện truyền tải chứ chưa xem nó như một phương tiện sáng tạo”. Thực tế cho thấy, những giá trị của thơ Việt chưa bao giờ bị đánh mất cả. Văn học, đặc biệt là thơ, luôn được quan niệm là nghệ thuật của ngôn từ. Thời trung đại, ngôn ngữ thơ được coi như một phương tiện truyền tải đạo lý, truyền tải chí quân tử, ba mươi năm chiến tranh 1945 - 1975, do tính chất đặc biệt của lịch sử, ngôn ngữ thơ lại được coi là phương tiện truyền tải tinh thần “xung phong”, “xung trận”, mặc dù vậy quan niệm ngôn ngữ - phương tiện truyền tải luôn gắn liền với quan niệm ngôn ngữ - phương tiện sáng tạo. Ta dễ dàng chứng minh điều này bằng những bài thơ đạt đến trình độ điêu luyện, mẫu mực cổ điển của thơ trung đại, những bài thơ đi cùng năm tháng của thơ thời đại đánh Pháp, đuổi Mỹ của dân tộc. Ngày nay, nếu thơ trẻ chỉ coi ngôn ngữ như một phương tiện sáng tạo, mà cái sản phẩm “sáng tạo” kia không mảy may “truyền tải” tư tưởng, xúc cảm thực thì rốt cuộc, chỉ làm ra cái gọi là “phản thơ”. Lúc đó, họ cứ tưởng mình đang “xác lập trở lại những giá trị đã bị đánh mất của thơ" mà không ngờ rằng chính mình đang đánh mất những giá trị đã có, vốn có của thơ.

Cuốn sách xuất bản lần đầu, đôi chỗ chưa thỏa đáng là điều không tránh khỏi. Mà cái gọi là “chưa thỏa đáng” ở đây cũng chỉ từ góc nhìn cá nhân, chủ quan của người đang “lạm bàn” mà thôi. Hi vọng từ góc nhìn của nhiều người đọc “kỹ tính” khác, lần in sau, sách sẽ hoàn thiện hơn.

H.Đ.K
(242/04-09)

-----------------------
(*)
Nguyễn Văn Long - Lã Nhâm Thìn, NXB Giáo dục, Hà Nội, 2006.

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • TRẦN VĂN LÝAi sản xuất lốp cứ sản xuất lốp. Ai làm vỏ cứ làm vỏ. Ai làm gầm cứ làm gầm. Nơi nào sản xuất máy cứ sản xuất máy. Xong tất cả được chở đến một nơi để lắp ráp thành chiếc ô tô. Sự chuyên môn hoá đó trong dây chuyền sản xuất ở châu Âu thế kỷ trước (thế kỷ 20) đã khiến cho nhiều người mơ tưởng rằng: Có thể "sản xuất" được thơ và sự "mơ tưởng" ấy vẫn mãi mãi chỉ là mơ tưởng mà thôi!

  • HOÀNG VŨ THUẬTChúng ta đã có nhiều công trình, trang viết đánh giá nhận định thơ miền Trung ngót thế kỷ qua, một vùng thơ gắn với sinh mệnh một vùng đất mà dấu ấn lịch sử luôn bùng nổ những sự kiện bất ngờ. Một vùng đất đẫm máu và nước mắt, hằn lên vầng trán con người nếp nhăn của nỗi lo toan chạy dọc thế kỷ. Thơ nảy sinh từ đó.

  • BÙI QUANG TUYẾNThơ mới là một hiện tượng nổi bật của văn học Việt Nam nói chung và thơ ca nói riêng trong thế kỷ XX. Nó vừa ra đời đã nhanh chóng khẳng định vị trí xứng dáng trong nền văn học dân tộc với các "hoàng tử thơ": Thế Lữ , Xuân Diệu, Huy Cận, Lưu Trọng Lư, Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử v.v... Đồng thời, Thơ mới là một hiện tượng thơ ca gây rất nhiều ý kiến khác nhau trong giới phê bình, nghiên cứu và độc giả theo từng thời kỳ lịch sử xã hội, cho đến bây giờ việc đánh giá vẫn còn đặt ra sôi nổi. Với phạm vi bài viết này, chúng tôi điểm lại những khái niệm về Thơ mới và sự đổi mới nghệ thuật thơ của các bậc thầy đi trước và tìm câu trả lời cho là hợp lý trong bao nhiêu ý kiến trái ngược nhau.

  • MẠNH LÊ Thơ ca hiện đại Việt Nam thế kỷ XX đã thu được những thành tựu to lớn đóng góp vào sự phát triển của lịch sử thơ ca dân tộc. Đặc biệt từ ngay sau Cách mạng tháng 8 năm 1945, Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời thay thế chế độ phong kiến thực dân hơn trăm năm đô hộ nước ta cùng với khí thế cách mạng kháng chiến cứu nước theo lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh tháng 12 năm 1946 đã thổi vào đời sống văn học một luồng sinh khí mới để từ đó thơ ca hiện đại Việt Nam mang một âm hưởng mới, một màu sắc mới.

  • NGUYỄN KHẮC THẠCHNếu gọi Huế Thơ với tư cách đối tượng thẩm mĩ thì chủ thể thẩm mĩ của nó trước hết và sau cùng vẫn là sự hoá sinh Thơ Huế. Đương nhiên, không hẳn chỉ có Thơ Huế mới là chủ thể thẩm mĩ của Huế Thơ và cũng đương nhiên không hẳn chỉ có Huế Thơ mới là đối tượng thẩm mĩ của Thơ Huế. Huế Thơ và Thơ Huế vẫn là hai phạm trù độc lập trong chừng mực nào đó và có khi cả hai đều trở thành đối tượng thẩm mĩ của một đối tượng khác.

  • ĐỖ LAI THÚYThanh sơn tự tiếu đầu tương hạc                                  Nguyễn KhuyếnNói đến Dương Khuê là nói đến hát nói. Và nói đến hát nói, thì Hồng Hồng, Tuyết Tuyết làm tôi thích hơn cả. Đấy không chỉ là một mẫu mực của thể loại, mà còn làm một không gian thẩm mỹ nhiều chiều đủ cho những phiêu lưu của cái đọc.

  • NGUYỄN NGỌC THIỆNHải Triều tên thật là Nguyễn Khoa Văn, sinh năm 1908 trong một gia đình Nho học, khoa bảng. Năm 20 tuổi, trở thành đảng viên trẻ của Tân Việt cách mạng Đảng, Nguyễn Khoa Văn bắt đầu cầm bút viết báo với bút danh Nam Xích Tử (Chàng trai đỏ). Điều này đã khiến trong lần gặp gỡ đầu tiên, người trai có "thân hình bé nhỏ và cử chỉ nhanh nhẹn theo kiểu chim chích" (1) ấy đã gây được cảm tình nồng hậu của Trần Huy Liệu- chủ nhiệm Nam Cường thư xã, người bạn cùng trang lứa tuy vừa mới quen biết, nhưng đã chung chí hướng tìm đường giải phóng cho dân tộc, tự do cho đất nước.

  • TÔ VĨNH HÀ Huế đang trở lạnh với "mưa vẫn mưa bay" giăng mờ như hư ảo những gương mặt người xuôi ngược trên con đường tôi đi. Tôi giật mình vì một tà áo trắng vừa trôi qua. Dáng đi êm nhẹ với cánh dù mỏng manh như hơi nghiêng xuống cùng nỗi cô đơn. Những nhọc nhằn của tuổi mơ chưa đến nỗi làm bờ vai trĩu mệt nhưng cũng đủ tạo nên một "giọt chiều trên lá(1), cam chịu và chờ đợi nỗi niềm nào đó hiu hắt như những hạt mưa...

  • NGUYỄN HỒNG DŨNG1. Một cuộc đời lặng lẽ và những truyện ngắn nổi danhO' Henry, tên thật là William Sydney Porter, được đánh giá là người viết truyện ngắn xuất sắc nhất của nước Mỹ những năm đầu thế kỷ XX. Ông sinh tại Greenboro, tiểu bang North Carolina vào năm 1862. Năm 15 tuổi (1877), ông thôi học và vào làm việc trong một hiệu thuốc tây. Vào tuổi hai mươi, ông bị đau nặng và sức khoẻ sa sút nên đã đến dưỡng sức ở một nông trại tại tiểu bang Texas. Ông đã sống ở đấy hai năm, đã làm quen với nhiều người và hiểu rất rõ tính cách miền Tây. Sau này, ông đã kể về họ rất sinh động trong tập truyện ngắn có tựa đề đầy xúc cảm Trái tim miền Tây.

  • MAI KHẮC ỨNGCó thể sau khi dẹp được loạn 12 sứ quân, Đinh Tiên Hoàng (968- 979) thống nhất lãnh thổ và lên ngôi hoàng đế, đã đặt được cơ sở ban đầu và xác định chủ quyền Đại Cồ Việt lên tận miền biên cương Tây Bắc vốn là địa bàn chịu ảnh hưởng Kiểu Công Hãn. Trên cơ sở 10 đạo thời Đinh nhà vua Lý Thái Tổ (1010- 1028) mới đổi thành 24 phủ, lộ. Nguyễn Trãi viết Dư địa chí (thế kỷ XV) vẫn giữ nguyên tên gọi đạo Lâm Tây. Tức vùng Tây- Bắc ngày nay.

  • TRẦN ANH VINHÂm vang của những sự kiện xẩy ra năm Ất Dậu (1885) không những vẫn còn đọng trong tâm trí người dân núi Ngự mà còn được ghi lại trong một số tác phẩm. Bài vè “Thất thủ Kinh đô” do cụ Mới đi kể rong hàng mấy chục năm ròng là một tác phẩm văn học dân gian, được nhiều người biết và ngưỡng mộ. Riêng Phan Bội Châu có viết hai bài:+ Kỷ niệm ngày 23 tháng Năm ở Huế (Thơ)+ Văn tế cô hồn ngày 23 tháng Năm ở Kinh thành Huế.

  • HOÀNG CÔNG KHANHCó một thực tế: số các nhà văn cổ kim đông tây viết tiểu thuyết lịch sử không nhiều. Ở Việt Nam càng ít. Theo ý riêng tôi nguyên nhân thì nhiều, nhưng cơ bản là nhà văn viết loại này phải đồng thời là nhà sử học, chí ít là có kiến thức sâu rộng về lịch sử. Cũng nhiều trường hợp người viết có đủ vốn liếng cả hai mặt ấy, nhưng hoặc ngại mất nhiều công sức để đọc hàng chục bộ chính sử, phải sưu tầm, dã ngoại, nghiên cứu, đối chiếu, chọn lọc hoặc đơn giản là chưa, thậm chí không quan tâm đến lịch sử.

  • TRƯƠNG ĐĂNG DUNG                 Tặng Đỗ Lai ThuýChủ nghĩa hiện đại là kết quả của những nỗ lực hiện đại hoá đời sống và tư duy xẩy ra từ những năm cuối của thế kỷ XIX, ở Châu Âu. Những thành tựu nổi bật của khoa học tự nhiên, của triết học, xã hội học và tâm lí học đã tác động đến cách nghĩ của con người hiện đại trước các vấn đề về tồn tại, đạo đức, tâm lí. Tư tưởng của Nietzsche, Husserl, hay Freud không chỉ ảnh hưởng đến tư duy hiện đại mà tiếp tục được nhắc đến nhiều ở thời hậu hiện đại.

  • ĐẶNG TIẾNTân Hình Thức là một trường phái thi ca hiện đại được phổ biến từ năm bảy năm nay, phát khởi do Tạp Chí Thơ, ấn hành tại Mỹ, chủ yếu từ số 18, xuân 2000 “chuyển đổi thế kỷ”, và được nhiều nhà văn, nhà thơ trong và ngoài nước hưởng ứng. Tên Tân Hình Thức dịch từ tiếng Anh New Formalism, một trường phái thơ Mỹ, thịnh hành những năm1980 - 1990.

  • NGUYỄN ĐĂNG ĐIỆP Một ngày kia, cát bụi vùng Hoan Diễn đã sinh tạo một “kẻ ham chơi”. Y cứ lãng đãng trong đời như một khách giang hồ mang trái tim nhạy cảm, một trái tim đầy nhạc với những đốm lửa buồn. Để rồi sau những cuộc say tràn cung mây, khi dòng cảm hứng chợt bùng lên từ những vùng u ẩn nằm sâu trong cõi nhớ, những giai âm ùa về như những luồng điện làm vỡ òa bí mật: có thương có nhớ có khóc có cười- có cái chớp mắt đã ngàn năm trôi. Đây là những câu thơ khép lại một trong những bài thơ hay nhất của Nguyễn Trọng Tạo: Đồng dao cho người lớn(1).

  • NGUYỄN KHẮC PHÊTừ lâu, ở Huế, nhiều người đã biết tiếng ba công chúa, ba nữ sĩ (Tam Khanh) con vua Minh Mạng, em gái nhà thơ nổi tiếng Tùng Thiện Vương Miên Thẩm, trong đó MAI AM là người được nhắc đến nhiều nhất. Mai Am nổi tiếng trước hết vì tài thơ và cùng vì cuộc đời riêng không được may mắn của bà, tuy bà là người sống thọ nhất trong “Tam Khanh”.

  • LÊ DỤC TÚCùng với nghệ thuật tiếp cận và phản ánh hiện thực, nghệ thuật miêu tả và khắc họa chân dung nhân vật, nghệ thuật châm biếm và sử dụng ngôn ngữ cũng là một trong những nét nghệ thuật đặc sắc ta thường gặp trong các phóng sự Việt Nam 1932 - 1945.

  • NGUYỄN VĂN DÂNTrong thế kỷ XX vừa qua, thế giới, đặc biệt là thế giới phương Tây, đã sản sinh ra biết bao phương pháp phục vụ cho nghiên cứu văn học, trong đó phương pháp cấu trúc là một trong những phương pháp được quan tâm nhiều nhất.

  • AN KHÁNHHai mươi tám năm kể từ ngày chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam, đủ để một thế hệ trưởng thành, một dòng thơ định vị. Tháng 3 vừa qua, Hội Văn nghệ Hà Nội và nhóm nhà thơ - nhà văn - cựu binh Mỹ có cuộc giao lưu thú vị, nhằm tìm ra tiếng nói "tương đồng", sự thân ái giữa các thế hệ Mỹ - Việt thông qua những thông điệp của văn chương.

  • TRẦN ĐÌNH SỬ Bạn đọc Việt Nam vốn không xa lạ với phê bình phân tâm học hơn nửa thế kỷ nay, bởi nó đã bắt đầu được giới thiệu vào nước ta từ những năm ba mươi, bốn mươi thế kỷ trước. Nhưng đáng tiếc nó đã bị kỳ thị rất nặng nề từ nhiều phía. Giống như nhân loại có thời phản ứng với Darwin vì không chấp nhận lý thuyết xem con người là một loài cao quý lại có thể tiến hóa từ một loài tầm thường như loài khỉ, người ta cũng không thể chấp nhận lý thuyết phân tâm học xem con người - một sinh vật có lý trí cao quý lại có thể bị sai khiến bởi bản năng tầm thường như các loài vật hạ đẳng!