Vài trao đổi về cuốn Văn học Việt Nam sau 1975 - những vấn đề nghiên cứu và giảng dạy(*) (hay góp lời bàn về thơ cách tân đương đại)

16:53 12/05/2009
HOÀNG ĐĂNG KHOA Văn học Việt từ sau 1975, nhất là từ thời kỳ đổi mới, là một quá trình văn học rất phong phú, đa dạng và không ít phức tạp, lại còn đang tiếp diễn. Cuốn sách Văn học Việt Nam sau 1975 - Những vấn đề nghiên cứu và giảng dạy ra đời đáp ứng nhu cầu mang tính thời sự: nhu cầu nhìn nhận, đánh giá một cách khách quan, toàn diện về tiến trình văn học ba mươi năm qua, chuẩn bị cho sự ra đời của những công trình văn học sử và những chuyên khảo về giai đoạn văn học này.

Cuốn sách tập hợp những bài viết của nhiều tác giả tên tuổi, về những vấn đề nổi cộm của văn học Việt Nam sau 1975, từ lý luận, nghiên cứu đến sáng tác, tiếp nhận - phê bình với những cách tiếp cận, những góc nhìn đa dạng, nhiều phát hiện và đánh giá mới, cả trên phương diện tổng quát cũng như trên những vấn đề và sự kiện văn học cụ thể được dư luận đặc biệt quan tâm.

Có thể khẳng định, đây là một cuốn sách quý, chất lượng, đặc biệt hữu ích cho việc nghiên cứu, giảng dạy văn học Việt Nam sau 1975 trong nhà trường, từ phổ thông đến đại học. Những ai quan tâm nghiên cứu, tìm hiểu về vấn đề liên quan đến văn học Việt Nam sau 1975 đều có thể tìm gặp trong cuốn sách này nhiều gợi mở quý báu, ít nhất là về mặt phương pháp luận.
Tuy nhiên, đây đó trong một số ít bài viết, có luận điểm, cách diễn đạt chưa thật sự làm bằng lòng người đọc khó tính.

Trong bài: "Một số vấn đề cơ bản trong nghiên cứu lịch sử văn học Việt Nam giai đoạn từ sau 1975", tác giả Nguyễn Văn Long khi bàn về sự đổi mới và những đặc điểm của thể loại thơ, sau khi cho rằng thơ từ sau 1975 “xuất hiện nhiều dạng thức mới của cái tôi”, đó là “cái tôi thế sự với những cảm xúc khác, những nỗi buồn, sự lo âu, tâm trạng xót xa, day dứt trước hiện trạng xã hội, nhân thế”, đó là cái tôi “đào xới tận cùng bản thể”, cái tôi “được khai thác ở mọi bình diện, tầng bậc, trong mọi mối quan hệ”, đã viết: “Trong những xu hướng hiện đại chủ nghĩa, lại xuất hiện quan niệm khác về cái tôi, về chủ thể. Khi đề cao lối viết tự động, quan niệm “làm thơ là làm chữ”, cái tôi cũng bị xóa mờ đi, để vai trò của chữ nổi bật lên và các chữ trong bài thơ như là tự nó tạo ra mọi tác động đến độc giả” (tr.24).
Theo tôi, viết như vậy là chưa thỏa đáng.

Thứ nhất, ở đây, Nguyễn Văn Long đã “hẹp hóa” nội hàm của khái niệm cái tôi. Cái tôi, trong sáng tạo thơ nói riêng, ngoài nghĩa là cái tôi nội cảm, trĩu nặng cảm xúc, sâu thẳm nỗi niềm, tự phơi trải, còn được hiểu là phong cách cá nhân, là cá tính sáng tạo đơn nhất, không lặp lại của chủ thể. Nếu hiểu cái tôi theo nghĩa đầy đủ này thì khi đề cao lối viết tự động, quan niệm “làm thơ là làm chữ”, cái tôi không thể bị xóa mờ đi như Nguyễn Văn Long nói, ngược lại, cái tôi với nghĩa là phong cách, là cá tính sáng tạo lại càng được tô đậm, khắc dấu hơn bao giờ hết. Văn chương, sản phẩm của sáng tạo, một trong những giá trị đích thực của nó là sự khác biệt. Một khi đã quan niệm “làm thơ là làm chữ”, là “lao động chữ”, nhà thơ là “phu chữ” thì người “phu chữ” kia sáng tạo ra cái gì nếu không phải là những chữ mới lạ, khác biệt, mà sáng tạo ra những chữ mới lạ, khác biệt kia để làm gì nếu không phải là để khẳng định phong cách, cá tính sáng tạo, khẳng định cái tôi nghệ sĩ của mình?

Thứ hai, nếu ta tạm chấp nhận cách hiểu theo nghĩa không đầy đủ của Nguyễn Văn Long, rằng cái tôi chỉ là cái tôi nội cảm thì liệu khi đề cao lối viết tự động, quan niệm “làm thơ là làm chữ”, cái tôi (nội cảm) này có bị “xóa mờ đi, để vai trò của chữ nổi bật lên và các chữ trong bài thơ như là tự nó tạo ra mọi tác động đến độc giả” hay không? Thơ bao giờ cũng đi ra từ cái tôi sâu thẳm, là sự ngân rung của một trạng huống cảm xúc đặc biệt của thi sĩ. Và chữ chính là trạng huống cảm xúc đặc biệt ấy được tượng hình, vật chất hóa. Chữ chỉ có thể nổi bật lên vai trò của mình và tự nó tạo ra mọi tác động đến độc giả khi và chỉ khi nó thấm đẫm, trĩu nặng cảm xúc, tư tưởng của chủ thể sáng tạo ra nó, chứ hoàn toàn không thể khi nó rỗng nghĩa, vô cảm, vô hồn. Một khi “phu chữ” có thể “làm chữ" được như thế thì cái tôi không phải bị xóa mờ đi, mà cái tôi (nội cảm) lúc này đã lặn sâu vào chữ, làm cho chữ cựa quậy trên chiều “năng nghĩa” (chữ dùng của Dương Tường), sản sinh, tái tạo nghĩa không ngừng.

Thứ ba, không thể đồng nhất “quan niệm làm thơ là làm chữ” với việc “đề cao lối viết tự động” được. Hai vấn đề này tự nó đã mâu thuẫn với nhau. Một khi đã chủ trương viết tự động thì sao lại quan niệm làm thơ là “làm chữ”, là "lao động chữ”, sao lại gọi nhà thơ là “phu chữ”? Theo tôi, nói “viết tự động” là nói chuyện nội dung, nghĩa là quan niệm, thơ không chỉ là sản phẩm của ý thức, lý trí mà có khi là sản phẩm của những khoảnh khắc lóe sáng, “vụt hiện” của vô thức. Câu thơ, bài thơ là sự ú ớ của vô thức nên có thể không “tải” thông điệp rõ ràng, nhưng nó lại từ chối cách hiểu áp đặt chủ quan, suy diễn gò ép hiện thực của lý trí ráo hoảnh. Còn nói “làm thơ là làm chữ" là nói chuyện hình thức, có nghĩa là chữ của thơ không là những chữ quen thuộc đến nhàm mòn, sáo rỗng được dùng một cách tùy tiện, dễ dãi mà phải là những chữ được lạ hóa, ám dụ người đọc cùng sản sinh nghĩa.

Trong bài “Đôi điều suy nghĩ về văn hóa đọc thơ hôm nay” của tác giả Đặng Thu Thủy cũng có nhiều đoạn lập luận, diễn đạt, theo tôi là không thỏa đáng.

Ở tr.431, tác giả viết: “...Thực tế đã cho thấy, sự cố gắng, thậm chí xả thân vì nghệ thuật của anh rồi cũng chẳng ích gì nếu anh một mình đơn độc. Anh không thể thay thế độc giả mà quyết định vận mệnh của thơ mình”.  Đúng, sáng tạo nên tác phẩm là việc của cá nhân mỗi nhà thơ, nhưng ngoài giá trị tự thân của tác phẩm, độc giả là người có vai trò quyết định giá trị đích thực của tác phẩm đó. Nhưng tôi nghĩ, nhà thơ “chỉ một mình đơn độc" khi anh bất tài, khi sự cố gắng, xả thân của anh rốt cục chỉ cho ra những thứ phi nghệ thuật, phản thơ mà thôi. Nghĩa là, ví như nói như Nguyễn Đăng Điệp, thơ anh chỉ đi ra từ cái tôi bé nhỏ, dị biệt của anh mà không đủ sức cộng hưởng với khách tri âm, không ôm chứa được hơi thở của thời đại; ví như anh cứ lai căng tiếp nhận tùy tiện những thứ bên ngoài mà không có màng lọc văn hóa, màng lọc tinh thần dân tộc để tinh tuyển; ví như anh cứ hô hào làm chữ để chỉ cho ra những chữ rỗng nghĩa, vô hồn... Độc giả của một tác phẩm văn học luôn ở số đông với đủ mọi tầm đón nhận, cách đọc, vì thế không việc gì phải nơm nớp sợ họ bỏ sót những tác phẩm của mình, nếu nó hay thực sự. Nói như Trần Mạnh Hảo, thơ ca, khi nó đã đạt được đến cái hay, nó còn lại, đến thời gian mà nó còn không sợ nữa, huống hồ vài ba lời phủ định vu vơ.

Cũng ở tr.431, tác giả viết: “Những thử nghiệm tìm tòi của nhóm Xuân Thu nhã tập, của Trần Dần, Lê Đạt, của Nguyễn Đình Thi,... đều trở thành lạc lõng và nhanh chóng đi đến hồi kết thúc bởi thiếu một văn hóa đọc thơ tương ứng. Để rồi mấy chục năm sau, nó lại được thử nghiệm lại. Nhưng rồi cái chung cục của nó có khác xưa?”. Không phải những thử nghiệm tìm tòi thơ rốt cục đều “trở thành lạc lõng và nhanh chóng đi đến hồi kết thúc bởi một văn hóa đọc thơ tương ứng” như tác giả viết. Những thủ lĩnh cách tân thơ như Trần Dần, Lê Đạt, Đặng Đình Hưng,... không hẳn “lạc lõng” vì bên cạnh họ vẫn có những bạn đọc ghi nhận những thành công nhất định của họ. Những thử nghiệm của họ trên thực tế cũng không có chuyện “nhanh chóng đi đến hồi kết thúc”. Sau sự cố “Nhân văn giai phẩm”, họ chỉ tạm ngừng quyền công bố tác phẩm mà thôi chứ quyền sáng tạo của họ, tư cách nghệ sĩ của họ thì không có thế lực nào có thể tước đoạt nổi. Họ vẫn cứ đi tận cùng con đường mình đã đi, và ý thức cách tân của họ, những thành công nhất định của họ đã và đang được thừa nhận. Trần Dần, Lê Đạt đã được trao tặng giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật đó thôi.

Ở tr.432, khi nói về tinh thần “dân chủ chữ”, tinh thần Freud “nổi loạn” thành thực phơi trải đam mê bản năng của thơ trẻ, tác giả viết: “Cái gốc rễ khiến thơ bùng phát không phải là những chiêm nghiệm của lý trí, tư duy mà trước hết là của bản năng người”. Theo tôi, câu nói của Tố Hữu "Thơ chỉ tràn ra trong tim ta khi cuộc sống đã thật đầy” vẫn chưa hề lỗi thời. Cái gốc rễ của thơ trước hết là bản năng người chỉ khi đó là bản năng thèm sống, khát sống, sống “đủ đầy và mãnh liệt” với những cảm giác rất người. Cái gốc rễ này phải xuyên qua màng lọc “lý trí, tư duy”, “chiêm nghiệm" đến độ có khả năng tự bốc cháy thành cảm xúc thì mới có thể vật chất hóa thành cái gọi là thơ, thơ đích thực được.

Cũng ở tr.432, tác giả viết: “Các nhà thơ trẻ đã xác lập trở lại những giá trị đã bị đánh mất của thơ, trong đó đáng chú ý nhất là ngôn ngữ. Thơ ta thường coi ngôn ngữ như một phương tiện truyền tải chứ chưa xem nó như một phương tiện sáng tạo”. Thực tế cho thấy, những giá trị của thơ Việt chưa bao giờ bị đánh mất cả. Văn học, đặc biệt là thơ, luôn được quan niệm là nghệ thuật của ngôn từ. Thời trung đại, ngôn ngữ thơ được coi như một phương tiện truyền tải đạo lý, truyền tải chí quân tử, ba mươi năm chiến tranh 1945 - 1975, do tính chất đặc biệt của lịch sử, ngôn ngữ thơ lại được coi là phương tiện truyền tải tinh thần “xung phong”, “xung trận”, mặc dù vậy quan niệm ngôn ngữ - phương tiện truyền tải luôn gắn liền với quan niệm ngôn ngữ - phương tiện sáng tạo. Ta dễ dàng chứng minh điều này bằng những bài thơ đạt đến trình độ điêu luyện, mẫu mực cổ điển của thơ trung đại, những bài thơ đi cùng năm tháng của thơ thời đại đánh Pháp, đuổi Mỹ của dân tộc. Ngày nay, nếu thơ trẻ chỉ coi ngôn ngữ như một phương tiện sáng tạo, mà cái sản phẩm “sáng tạo” kia không mảy may “truyền tải” tư tưởng, xúc cảm thực thì rốt cuộc, chỉ làm ra cái gọi là “phản thơ”. Lúc đó, họ cứ tưởng mình đang “xác lập trở lại những giá trị đã bị đánh mất của thơ" mà không ngờ rằng chính mình đang đánh mất những giá trị đã có, vốn có của thơ.

Cuốn sách xuất bản lần đầu, đôi chỗ chưa thỏa đáng là điều không tránh khỏi. Mà cái gọi là “chưa thỏa đáng” ở đây cũng chỉ từ góc nhìn cá nhân, chủ quan của người đang “lạm bàn” mà thôi. Hi vọng từ góc nhìn của nhiều người đọc “kỹ tính” khác, lần in sau, sách sẽ hoàn thiện hơn.

H.Đ.K
(242/04-09)

-----------------------
(*)
Nguyễn Văn Long - Lã Nhâm Thìn, NXB Giáo dục, Hà Nội, 2006.

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • Theo định nghĩa hiện nay, trường ca là một tác phẩm thơ có dung lượng lớn, thường có cốt truyện tự sự hoặc trữ tình.

  • (Phát biểu ý kiến góp phần vào nội dung Đề án Nghị quyết về “Xây dựng đội ngũ trí thức, văn nghệ sĩ trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH...” của Ban Tuyên giáo Trung ương).

  • 1. Cuốn sách về nhà tình báo nổi tiếng - anh hùng Phạm Xuân Ẩn (PXÂ) của giáo sư sử học người Mỹ Larry Berman, khi được xuất bản bằng tiếng Việt có thêm phụ đề “Cuộc đời hai mặt không thể tin được của Phạm Xuân Ẩn”.

  • Lâm Thị Mỹ Dạ là một nhà thơ trưởng thành trong phong trào chống Mỹ. Nhắc đến thơ chị, người ta thường nhớ đến những bài thơ mang đậm âm hưởng sử thi như Khoảng trời, hố bom, hoặc dịu dàng, nữ tính nhưng không kém phần thẳng thắn như Anh đừng khen em, hoặc nồng cháy yêu đương như Không đề…

  • "Không có cách khác, thưa ngài. Tất cả cái gì không phải văn xuôi thì là thơ; và tất cả cái gì không phải thơ thì là văn xuôi"(Gã tư sản quý tộc, Molière). Trên đây là định nghĩa "thâm thúy" của thầy dạy triết cho ông Jourdain, người mà đã hơn bốn mươi năm trời vẫn sai bảo người ăn kẻ làm, vẫn hằng ngày trò chuyện với mọi người bằng "văn xuôi" mà không tự biết.

  • Trong những vấn đề mới của lý luận văn học hiện nay, các nhà nghiên cứu thường nói đến chức năng giao tiếp của văn học. Khi nói văn học có chức năng giao tiếp thì cũng có nghĩa cho rằng văn học ở ngoài giao tiếp.

  • PHONG LÊ …Không đầy hai thập niên đầu thế kỷ, trong những thức nhận mới của đất nước, nền văn chương- học thuật của dân tộc bỗng chuyển sang một mô hình khác- mô hình quốc ngữ, với sức chuyên chở và phổ cập được trao cho phong trào báo chí, xuất bản bỗng lần đầu tiên xuất hiện và sớm trở nên sôi nổi như chưa bào giờ có trong ngót nghìn năm nền văn chương học thuật cổ truyền…

  • Vừa qua bà văn sĩ Nguyễn Khoa Bội Lan ở Phú Thượng (Huế) đột ngột gọi dây nói cho tôi than phiền về những chi tiết sai với lịch sử trong bài Phạn Bội Châu với Hương Giang thư quán của  Chu Trọng Huyến đăng trên Tạp chí Sông Hương số 116 (10. 1998)

  • Chúng tôi cho rằng trong lịch sử văn học Việt chỉ có Chí Phèo mới là một hình tượng đích thực. Chí Phèo là hiện thân của sự tồn tại vĩnh cửu của bản ngã VÔ CAN. 

  • Đó là bản đàn Thúy Kiều đàn cho Kim Trọng nghe lần cuối trong ngày tái hợp. Bản đàn chứa đầy những mâu thuẫn nghịch lý, bởi vì cũng như bao lần trước, lần này vẫn là bản “bạc mệnh” năm xưa. Nhập hồn Kim Trọng, Nguyễn Du bình luận:                Lọt tai nghe suốt năm cung                Tiếng nào là chẳng não nùng (*) xôn xaoTác quyền và nghệ nhân biểu diễn vẫn là nàng Kiều chứ không còn ai khác, nhưng thật lạ:                Xưa sao sầu thảm, nay sao vui vầy?Kim Trọng, tri âm và trong cuộc vẫn không khỏi "hồ đồ", huống gì chúng ta, những người đến sau Nguyễn Du muộn hơn hai thế kỷ? 

  • Có thể nói, học tập phong cách ngôn ngữ Chủ tịch Hồ Chí Minh, trước hết, là học tập cách viết và cách lập luận chặt chẽ qua từng câu chữ, mỗi trang văn chính luận. Những văn bản: “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến”, “Tuyên truyền”, “Bản án chế độ thực dân Pháp”, “Tuyên ngôn Độc lập” luôn là những áng văn mẫu mực về phong cách ngôn ngữ ngắn gọn, chắc chắn, dễ hiểu, chính xác và giàu cảm xúc. 

  • NGUYỄN ĐĂNG ĐIỆP1. Đội ngũ các nhà văn trẻ mà tôi nói tới trong bài viết này là những cây bút sinh ra sau 1975. Biết rằng trong văn chương, khái niệm trẻ/ già chỉ là một khái niệm có tính “tương đối” vì già hay trẻ đều phải nỗ lực để tạo nên những tác phẩm xuất sắc, vị trí của họ phải được đánh giá thông qua tác phẩm chứ không phải từ những chiếu cố ngoài văn học. 

  • NGUYỄN KHẮC PHÊTrong văn chương, cách gọi “chủ nghĩa” này hay “chủ nghĩa” khác đều không ổn, thậm chí có hại vì vô hình trung như thế là cách buộc nhà văn theo “một con đường” vạch sẵn mà từ hơn nửa thế kỷ trước, Hải Triều đã lên án...