THÁI KIM LAN
Đầu năm 1999, nhà Văn hóa Thế giới ở Berlin gửi xuống Muenchen cho tôi ngót chục bài thơ, nhờ chuyển ngữ sang tiếng Đức cho tuần lễ văn hóa Việt Nam tại Berlin vào cuối tháng 3 năm ấy. Như thường lệ không đắn đo, tôi sốt sắng nhận lời.
Nhà thơ Lê Đạt - Ảnh: internet
Mãi sau này mới biết ra lẽ, cái duyên tại sao mình được chọn: Tác giả những bài thơ là Lê Đạt.
Rồi cuộc dịch thơ trở nên một trận toát mồ hôi, chẳng biết nhà thơ đã làm khổ chữ đến đâu, mà mười mấy năm sau thổ lộ, chữ đã làm khổ nhà thơ đến cả một tạ mồ hôi - chuyện ấy chắc… cũng thường cho Việt Nam nóng bức - còn tôi, chưa bao giờ trong đời đã có một trận dịch bở hơi tai, một trận đụng độ chữ nghĩa cam go đến thế, nhớ lại vẫn còn thấy… ê vai.
Thì có ngờ đâu mà kịp thủ thế - cứ tưởng thơ là thơ trơn lu, thế mà mới đọc là va đầu ngay vào những con chữ kỳ lạ, những cấu trúc ngược, những cạm bẫy của dấu nhấn, chấm phết, xuống hàng, bỏ lững; những chữ ghép ra khỏi mọi quy tắc, những chữ “con” thành “cả”, “đại” thành “tiểu”, “nghiêm mà đùa”, thanh mà tục - chưa thấy một chữ nào thật tục trong thơ Lê Đạt - nhiều con chữ gói cả một nền văn học vào trong, mà khi được chuyển ra ngoại ngữ, nó đánh mất tất cả khối lượng văn chương… Đọc thơ mà như đang rơi giữa thinh không:
Tim ghép ngọt góc cằn xuân bỏ hóa
Máu chửa hoàn hồng tình cả dạy non
Mộng đằng ngà bướm vẫn son ăn mạ
Vô tâm
Hay em ghép quả bồ hòn
(Ghép tim)
Tuổi lú lẫn ngược nhằm ga trẻ dại
Hay ngây thơ
Không biết lối về già
Tha thẩn chữ ngã ba
(Ke tuổi)
Rừng buồn bứt lá chim chim
Hỏi sim sim tím
hỏi bìm bim leo
Ước lòng chữ trắng nhẹ tênh cỏ lú
Chín kiếp chuyện đời ú ớ một tên em
(Cỏ lú)
Trận dịch thơ trở thành một trận chiến truy lùng chữ nghĩa dở khóc dở cười, tôi không biết tác giả ở phương nào để hỏi ông bao nhiêu là câu hỏi, nhưng biết rõ cán cân đã hẳn nghiêng về đâu; cái gậy ảo thuật ngôn ngữ đã hất tung trái cầu dịch thuật: một bên là tự do vùng vẫy bên kia là hai tay bị trói hai lần cấm không được ra khỏi vòng chơi. Ba lần đưa bản dịch thử cho người bạn Đức, ba lần đều nghe trả lời “không hiểu”. Đến lần thứ tư, tôi đành nhắm mắt dịch liều, y như khi lái xe vào Paris, rơi nhằm Place de Concorde, có 16 con đường túa vào nhau nơi bồng binh, nếu đi theo luật và tinh thần phần phải về ta kiểu Đức thì sẽ đụng xe rầm rầm, cho nên muốn thoát thì đành phải nhắm mắt đạp ga theo cảm tính của luật chơi “người sao ta vậy”, có nghĩa, tôn trọng mạng sống là trước hết còn luật là chấp!
Chẳng đặng đừng phải chấp tất thôi, nếu “chữ chơi” thì “chơi” với chữ, mà trong luật “chơi” này trước hết, người chơi phải biết “chơi” thật; có nghĩa tự do, có nghĩa vứt hết mọi điều lệ ngôn ngữ, để nghiêm túc theo chính ngôn ngữ của người đang “ngôn” hay của chính “ngữ ngôn”. Ít nhất tôi đã đổi tư thế của mình - học theo Lê Đạt trong vô thức - nửa phút trước khi quyết định đầu hàng, gửi trả lại nguyên bản, bằng cách bỏ hết tâm trạng nghiêm trọng, tự ái, thả lỏng mình và liều mạng dịch tiếp. Thế mà được việc, kết quả người bạn Đức đã hiểu.
Có điều tôi chắc rằng, nếu bây giờ đọc lại bản dịch - điều mà đã 10 năm nay tôi không làm, thì có lẽ sẽ có… bản dịch khác, không phải đúng, chính xác hơn mà sảng khoái hơn…
Tôi không chắc nhà thơ Lê Đạt đồng ý với tôi, như ông đã từng không để ý đến những phiền toái ấy. Giờ đây chẳng còn dịp để bày tỏ điều này và còn những điều tha thẩn chữ ngã ba khác vẫn là nỗi băn khoăn không dứt của người dịch:
Ví dụ “cái ga xanh ấy sót lại” hay “xót lại”? - tôi đã nhận được hai bản khác nhau gửi đến, do đánh máy sai theo giọng Bắc nhầm “S” và “X”? Dạo ấy tôi hỏi các anh ở Paris bản nào và được xác nhận “sót lại” là đúng theo tác giả và theo bản dịch tiếng Pháp. Tôi cũng đã dịch “sót lại”. Nhưng nếu giờ đây dịch lại thì tôi sẽ dịch “xanh xót lại”:
Đời tốc hành một ga xanh SÓT lại
Một góc tuổi mải tầu thơ dại mãi
Tìm nhà
quên mất số lớn khôn
hay:
Đời tốc hành một ga xanh XÓT lại…
Cái ga xanh ở lại, xanh đến xót xa khi chuyến tốc hành đã vụt qua… Lê Đạt đã đi… đột ngột chuyến tốc hành!
Có phải tự do của tôi là “xót”, bây giờ xót xa, nhưng có một chữ “xót” không?
Hay “sót” và “xót” cũng chỉ là “bóng chữ”?
Nhà thơ sẽ mỉm cười…
Như đã mỉm cười khi gặp tôi ở Berlin (Chúng tôi ở hai chương trình khác nhau tuy trong cùng một tuần lễ văn hóa). Cuộc gặp đơn giản và tự nhiên, không khách sáo, không nồng nhiệt mà bình thường với những nụ cười của Lê Đạt, hiền hòa thấp thoáng trong sảnh đường. Vẻ người đôn hậu “nhà thơ không phải là nhà thơ” hơn dáng dấp ta thường chờ đợi nơi một nhà thơ mà cũng chẳng có chi ngạo nghễ tự hào của kẻ “dissident”. Chúng tôi không đả động gì đến thơ. Nhà thơ không hỏi về chuyện dịch thơ của mình (hiếm hoi lắm) và người dịch cũng không nhắc đến chuyện “toát mồ hôi”. Có lẽ một phần chuyến đi sang Đức đã quá bất ngờ cho một nhân vật của Nhân Văn Giai Phẩm.
Mà cũng có lẽ vì mọi sự bình thường, có gì đâu mà hỏi han!
Tôi mang theo nhiều ấn tượng về tuần lễ Việt Nam tại Berlin, trong đó ấn tượng về buổi gặp nhà thơ Lê Đạt, khá lạ lùng: cái cảm giác sống động được thấy bằng xương thịt một người, nhưng lại nhẹ tênh như sờ một cái “Bóng”. Quả tình Lê Đạt đã là cái bóng đứng đó với cô hướng dẫn viên Brigitte Kraffert, khi tôi thấy lần đầu, so với cường độ mãnh liệt của cuộc chiến với thơ Lê Đạt mà tôi trải qua trước đó.
Mà có lẽ chính vì cái bóng đơn sơ ấy mà có cuộc gặp lại lần hai chăng?
Lần này do tôi chủ động. Hóa ra thơ Lê Đạt đã nằm trong tiềm thức từ lúc nào. Một lần đến Hà Nội, tôi lang thang 36 phố phường. Qua hàng Đào, hàng Đường, đến Lương Văn Can, rồi tình cờ lớ quớ ở một góc đường lao xao những xanh đỏ tím vàng, những giấy là giấy; trùng điệp cửa hàng bán giấy vệ sinh, thùng giấy, xà phòng, khăn tắm… Ơ kìa chẳng là:
Đầu phố Lãn Ông có cửa hàng tạp vặt
Đăng ký số 4210
đứng tên Lê Đạt
Nhớ xưa ba mươi năm
Cửa hàng quan niêm phong
Bút độc quân ông Lành tẩy uế
Tuổi sạch phục hồi bán giấy vệ sinh.
Tôi bắt đầu từ hàng thứ nhất, hỏi một hồi thì tìm đúng cửa hàng Lê Đạt. Người nhà bảo ông đi dạo chưa về. Trở lại lần thứ hai, nhà thơ xuất hiện thật, sau những núi giấy vệ sinh: bỡ ngỡ nhận ra người khách bất ngờ: “Lan đấy hả?”, nỗi ngạc nhiên không quá một tích tắc là đã thấy nụ cười nhân hậu tiếp theo.
Những năm sau mỗi lần đến Hà Nội, tôi thường gặp nhà thơ với các bác các anh chị trong ban biên tập Tia Sáng cùng nhau đi ăn sáng hay ăn trưa. Buổi gặp thường ngắn ngủi, vừa đủ nghe một bản nhạc, trao đổi vài tin tức, vài đề tài, hớp vài ngụm nước trà, hay dừng nơi ly rượu vang. Lần cuối món cừu nướng nơi Viện Goethe, chuyện cũng vu vơ, nhẹ nhàng, chuyện chung chung giữa nhiều người. Nhưng có một lần, giữa câu chuyện chung với nhà báo Văn Thành, đột nhiên nhà thơ Lê Đạt quay sang nói với tôi, trong tư thế của một người đang tranh luận về một đề tài - một đề tài ghiền của tôi, mà nào có bao giờ trao đổi điều chi với nhau. Chứng tỏ nhà thơ đã chuyện trò “không lời” với tôi từ lâu, từ cuộc gặp này sang cuộc khác về cái đề tài ấy, bây giờ mới đi đến lời kết:
“Này, điều mà moi thích nhất trong đạo Phật, đó là tu cho được cái tâm bình thường!”, rồi tự gật đầu: “Chính cái tâm bình thường, thật bình thường, mới là điều đáng nói, hay lắm đấy!”
Tôi giật mình nhìn sang nhà thơ, thấy ông đang cười mỉm một mình, và giật mình thêm một lần nữa, bất ngờ nhận ra - chính cái người không bao giờ ngờ đến - chính người ấy lại chỉ cho tôi điều tinh yếu của đạo Phật, rõ nét hơn tất cả những người chuyên cần trong đạo Phật, những Thiền sư, những nhà tu, những Phật tử thông thuộc thiên kinh vạn quyển.
Giữa rừng hỗn mang từ nhà đến chợ, từ chợ đến trường, từ trường đến cấp cao và cấp cao hơn, trong một thời mà những chữ như “hoành tráng”, “làm giàu”, “đại gia”, “hoa hậu”, “anh hùng cứu nước”, “buôn bán nhà đất” hà rầm tràn lan khắp nơi, ai ai cũng tìm cái hơn cái nhất, cái phi thường, cái ưu tú lấn sâu đến tận nhà chùa, nhà thờ như một thứ bệnh thần kinh bên cạnh những thứ dịch cấp tính, thì giữ được cái “tâm bình thường” quả không dễ, lại cần thiết cho cuộc sống an lành đạo đức đến nhường nào.
Chính nhà thơ Lê Đạt đã trực nhận điều ấy bằng nhạy cảm của nhà thơ, và có lẽ suốt cuộc đời Lê Đạt đã “chơi thơ” một cách nghiêm túc trên cái nền Tâm ấy. Đổ hàng tạ mồ hôi bi kịch trên cái “bình thường” ấy để xây Thơ và nhân cách nhà thơ.
Thật sảng khoái để nhận ra: con người ấy trong tận cùng bản chất keo sơn vẫn giữ chất hiền triết Việt Nam, dù thấm đượm tây học.
Chỉ tiếc xót, có thể Lê Đạt sẽ cười và bảo “moi biết rồi”. Tôi chưa kịp thú nhận với chú Lê Đạt rằng, ấn tượng của tôi về “bóng chữ” không còn là ấn tượng về hình hài cá nhân, ngay cả cái bóng cũng là cá thể.
Lê Đạt với cái Tâm bình thường đã hòa nhập làm một, trở nên điều gì phổ quát, đại thể. Mỗi lần gặp, và cảm giác đó đã có thật trong những lần gặp, tôi có cảm giác như đang ngồi dưới mái hiên của ngôi đình rộng thoáng hay trên thềm ngôi chùa không tên, không cần bước vào trong, cũng không cần pho tượng, chỉ ngồi ở hiên mà thấm đượm phong cảnh, trời mây, cả nhân tình thế thái, hong nắng và gió hồn nhiên,… Có thể với ly rượu vang và nhiều hoa, có thể dốc ngược bình, dốc luôn cả bồ chữ văn chương mà vẫn bình an, hài hòa với nụ cười chơi với chữ. Bởi một điều:
Lê Đạt là nhà thơ của thế giới… bình thường, “ước lòng chữ trắng nhẹ tênh”.
...Nhẹ tênh không chữ, thơ Lê Đạt đang mang Lê Đạt rong chơi sáng tạo như tự bao giờ!
T.K.L
(SDB9/6-13)
GIÁNG VÂN
Cầm trên tay tập thơ với bìa ngoài tràn ngập những con mắt và tựa đề “Khúc lêu hêu mùa hè”(*), một cái tựa đề như để thông báo về một cuộc rong chơi không chủ đích, và vì vậy cũng không có gì quan trọng của tác giả.
PHẠM PHÚ UYÊN CHÂU - PHẠM PHÚ PHONG
Ở miền Nam trước năm 1975, những ai học đến bậc tú tài đều đã từng đọc, và cả học hoặc thậm chí là nghiền ngẫm Việt Nam văn học sử giản ước tân biên của Phạm Thế Ngũ - một trong những bộ sách giáo khoa tương đối hoàn chỉnh xuất bản ở các đô thị miền Nam, cho đến nay vẫn còn giá trị học thuật, nhất là trong thời điểm mà ngành giáo dục nước ta đang cố gắng đổi mới, trong đó có việc thay đổi sách giáo khoa.
KỶ NIỆM 50 NĂM NGÀY MẤT NHÀ THƠ NGUYỄN BÍNH (1966 - 2016)
MAI VĂN HOAN
LÊ HỒ QUANG
Nếu phải khái quát ngắn gọn về thơ của Nguyễn Đức Tùng, tôi sẽ mượn chính thơ ông để diễn tả - đấy là “nơi câu chuyện bắt đầu bằng ngôn ngữ khác”.
NGÔ MINH
Ở nước ta sách phê bình nữ quyền đang là loại sách hiếm. Câu chuyện phê bình nữ quyền bắt đầu từ tư tưởng và hoạt động các nhà phê bình nữ quyền Pháp thế kỷ XX.
PHẠM XUÂN DŨNG
(Nhân đọc cuốn sách Trước nhà có cây hoàng mai - Tập tùy bút và phóng sự về Huế - xứ sở phong rêu kiêu sa của Minh Tự, Nxb. Trẻ, TP HCM 2016)
TÔ NHUẬN VỸ
Tại Hội thảo văn học hè hàng năm của Trung tâm William Joner - WJC, nay là Viện William Joiner Institute - WJI, thuộc Đại học Massachusetts - Hoa Kỳ, nhà thơ Võ Quê đã được chính thức mời giới thiệu nghệ thuật ca Huế.
Năm 1992, trong một cuộc gặp gỡ trí thức văn nghệ sĩ ở Vinh, nhà văn Ngô Thảo nói với tôi “cụ Phan Ngọc là nhà văn hoá lớn hiện nay”, lúc này ông không còn trẻ những cũng chưa già.
LÊ THÀNH NGHỊ
Đầu năm 2002, nghĩa là sau Đổi mới khoảng mươi lăm năm, trên Tạp chí Sông Hương, có một nhà thơ nổi tiếng thế hệ các nhà thơ chống Mỹ đặt câu hỏi: Liệu Nguyễn Khoa Điềm có giai đoạn bùng nổ thứ ba của thơ mình hay không? Chắc chắn sẽ rất khó. Nhưng người đọc vẫn hy vọng*.
NGỌC BÁI
(Đọc tiểu thuyết “À BIENTÔT…” của Hiệu Constant)
HOÀNG DIỆP LẠC
Người ta biết đến Nguyễn Duy Tờ qua tập sách “Xứ Huế với văn nhân” xuất bản năm 2003, với bút danh Nguyễn Duy Từ, anh lặng lẽ viết với tư cách của một người làm ngành xuất bản.
PHẠM XUÂN NGUYÊN
Cô Kiều của Nguyễn Du từ khi xuất hiện trong văn chương Việt Nam đã nhận bao tiếng khen lời chê, khen hết lời và chê hết mực, nhưng cô vẫn sống trong niềm yêu mến của bao lớp người Việt, từ bậc thức giả đến kẻ bình dân, xưa đã vậy mà nay cũng vậy.
PHAN TRỌNG HOÀNG LINH
Bước chân vào con đường nghiên cứu văn học và hòa mình vào trào lưu lý thuyết đang trở nên thời thượng, chủ nghĩa hậu hiện đại (postmodernism), nhưng Phan Tuấn Anh không biến nó thành cái “mác” để thời thượng hóa bản thân.
PHAN ĐĂNG NHẬT
1. Sơ lược về cuộc đời và sự nghiệp Phan Đăng Lưu
Phan Đăng Lưu sinh ngày 5/5/1902, tại xã Hoa Thành, huyện Yên Thành, Nghệ An; con cụ Phan Đăng Dư và cụ bà Trần Thị Liễu.
KỶ NIỆM 70 NĂM NGÀY MẤT CỦA NHÀ THƠ BÍCH KHÊ (1946 - 2016)
PHẠM PHÚ PHONG
HỒ THẾ HÀ
Nguyên Quân song hành làm thơ và viết truyện ngắn. Ở thể loại nào, Nguyên Quân cũng tỏ ra sở trường và tâm huyết, nhưng thơ được mọi người yêu quý và ngưỡng mộ hơn.
LA MAI THI GIA
Những ngày cuối năm, Sài Gòn bỗng dưng cũng khác, sáng sớm khi băng qua cầu Thủ Thiêm vốn đã quá quen, tôi khẽ rùng mình khi làn gió lành lạnh từ dưới sông Sài Gòn thổi lên, hơi sương nhè nhẹ tỏa ra bao bọc cả mặt sông mờ ảo, bất chợt thấy lòng ngẩn ngơ rồi lẩm bẩm một mình “Sài Gòn hôm nay khác quá!”
PHAN HỨA THỤY
Thời gian gần đây ở Huế, việc tìm kiếm lăng mộ vua Quang Trung đã trở thành một vấn đề sôi động.
LÃ NGUYÊN
Số phận văn chương của Nguyễn Minh Châu gắn liền với những bước đi cơ bản của nền văn học Việt Nam ở nhiều thời điểm lịch sử cụ thể.
Chúng ta đã được biết đến, và đây là phương diện chủ yếu, về một Nguyễn Bính thi sĩ, và không nhiều về một Nguyễn Bính nhà báo gắn với tờ tuần báo tư nhân Trăm hoa (1955-1957)1.