Từ ba chuyển đổi làm nên gương mặt của cái thời chúng ta đang sống...

15:44 29/01/2010
PHONG LÊ      (Tiếp theo Sông Hương số 250 tháng 12-2009 và hết) Sau chuyển đổi từ sự chia tách, phân cách đến hội nhập, cộng sinh, là một chuyển đổi khác, cũng không kém tầm vóc: đó là từ cộng đồng sang cá nhân; với một quan niệm mới: cá nhân mạnh thì cộng đồng mới mạnh; cá nhân được khẳng định thì sự khẳng định vai trò cộng đồng mới được bảo đảm.

GS Phong Lê - Ảnh: ductho.edu.vn

Xin không đi quá sâu vào lịch sử để xem xét mối quan hệ cá nhân- cộng đồng trong xã hội phong kiến lấy Nho giáo làm nền tảng, đưa tới sự bóp nghẹt cá nhân, hủy diệt cá tính trong mọi vòng kim cô: tam cương ngũ thường, tam tòng tứ đức - đã in sâu vào máu mọi thế hệ Kẻ Sỹ, đến cả những bậc ương ngạnh nhất như Nguyễn Du cũng phải để cho Từ Hải chết đứng; Cao Bá Quát phải đi làm giặc; còn Nguyễn Công Trứ, người nổi tiếng là ngông nghênh, đa tình mà vẫn cứ phải thúc thủ trước một cái rào chắn: “Hay tám vạn tư mặc kệ, không quân thần phụ tử đếch ra người”. Và nếu Kẻ Sỹ đã là thế, thì thứ dân lại càng bị trói buộc bởi trăm bề, vừa của phép vua, vừa của lệ làng. Từ ý thức đến tâm lý, tập quán, thói quen nếu người dân là con giun cái dế thì thế giới quan lại cũng là một trật tự các thang bậc của thế quyền, dưới quyền tối thượng của đức Vua, dẫu là hôn quân hoặc minh chủ. Sự ra đời của giai cấp tư sản và cuộc cách mạng tư sản trên phạm vi toàn thế giới đã lật đổ mọi uy lực của thế quyền và thần quyền, mà đem lại một giải phóng lớn cho xã hội - là giải phóng cá nhân, cho họ biết cái hạnh phúc được tự do, trước hết là tự do thân thể, và những thứ gọi bằng hạnh phúc mà con người sinh ra ở đời đều có quyền được hưởng, tất nhiên là trong những giới hạn mà lịch sử, và lịch sử đấu tranh giai cấp cho phép. Nhân đây cần dừng lại một ít về vai trò của giai cấp tư sản trong lịch sử. Một thời dài, với quan niệm đấu tranh giai cấp là động lực thúc đẩy thế giới phát triển, chúng ta đã đẩy về phía đối lập - thù địch tất cả những gì thuộc về hoặc gắn với giai cấp thống trị và hệ ý thức thống trị, trong đó giai cấp tư sản và hệ ý thức tư sản cùng với các thành phần có liên quan với chế độ tư hữu, gồm cả các tầng lớp trí thức tiểu tư sản là đối tượng phải đấu tranh để cải tạo. Khẩu hiệu công nông hóa trí thức một thời dài phải được quán triệt, chính vì mục tiêu này. Thế nhưng nếu “Tư tưởng thống trị của thời đại là tư tưởng của giai cấp thống trị”, thì mọi sản phẩm văn hóa và tinh thần của thời đại lại là đóng góp của nhân dân, và các tầng lớp trí thức của nhân dân, hoặc đứng về phía nhân dân. Tất cả những tên tuổi lớn trong số các danh nhân văn hóa và lịch sử của dân tộc và nhân loại đều thuộc tầng lớp trí thức, và do vậy mà thuộc về nhân dân. Còn giai cấp tư sản là giai cấp đã làm nên các cuộc cách mạng tư sản, đưa nhân loại vào một thời đại mới - thời đại của phát triển tư bản chủ nghĩa, thời đại mà những người khai sáng của nó, đều thuộc tầng lớp trí thức; và chính họ, những người khai sáng này - “những người đã đặt cơ sở cho nền thống trị hiện đại của giai cấp tư sản” - theo Ăngghen “có thể được xem bất cứ là những người như thế nào, nhưng quyết không phải là những người có tính hạn chế tư sản...”(1). Có nghĩa là, họ vẫn có đủ tư cách là phát ngôn, là đại diện cho lợi ích chung của nhân loại. Như vậy là thành tựu của khoa học, nghệ thuật, sản phẩm của các tầng lớp trí thức, vào bất cứ thời nào, cũng không phải là sở hữu của một giai tầng thống trị nào mà là thành tựu chung của văn minh nhân loại. Mỗi giai cấp đang lên đều được thừa hưởng các thành tựu đó, và cần biết cách sử dụng và phát huy vai trò của tri thức để gia tăng của cải vật chất và cải thiện đời sống tinh thần của xã hội.

Trở lại với vấn đề chúng ta đang bàn. Chủ nghĩa thực dân áp đặt sự thống trị lên thế giới người da màu, ở cả ba lục địa, biến các xã hội tiền tư bản thành xã hội thuộc địa; nhưng ngay trong xã hội thuộc địa là xã hội được kiến lập theo mô hình phương Tây, như cách nói của Mác: biến các xã hội mà nó xâm chiếm, bóc lột phải khuôn theo hình ảnh của mình, thì dẫu với tất cả các tội lỗi nó gây ra, vẫn cứ có những khoảng sống và khoảng sáng văn minh nhiều lần hơn xã hội phong kiến chuyên chế; không những hết những “ngục văn tự”, mà cũng chưa thấy người viết nào phải vào tù vì một áng văn chương - trừ văn học cách mạng bí mật, gắn với hoạt động cũng phải bí mật của các nhà Nho - chí sĩ, hoặc chiến sĩ cộng sản. Đó là điều giúp ta hiểu vì sao, ngay trong xã hội thuộc địa, vào nửa đầu thế kỷ XX, sinh hoạt văn hóa- tinh thần và nền văn chương- học thuật Việt Nam đã đạt được những thành tựu có thể nói là kỳ diệu - để có chữ Quốc ngữ, phong trào báo chí - xuất bản, Thơ mới, văn học hiện thực và những công trình biên khảo, phê bình, nghị luận sáng giá.

Tất cả bức tranh ngoạn mục nói trên có nguyên nhân gốc rễ là ở sự tiếp xúc với văn minh phương Tây, trong đó lõi cốt là sự giải phóng cá nhân, với những phân tích rất hay như của Hoài Thanh trong bài Tựa, đặt ở đầu Thi nhân Việt Nam. Một nửa thế kỷ cho sự hình thành cái cá nhân và nhu cầu giải phóng cá nhân; và khi cái cá nhân được tôn trọng, được giải phóng ra khỏi mọi ràng buộc, dẫu là trong khuôn khổ xã hội thuộc địa, thì đời sống tinh thần và văn chương học thuật sẽ có một khởi sắc đáng kể - đó là sự hình thành các phong cách nghệ thuật trong văn thơ như Hoài Thanh đã từng xác quyết: “Tôi quyết rằng trong lịch sử thi ca Việt Nam chưa bao giờ có một thời đại nào phong phú như thời đại này...” (thời kỳ 1930-1945). Tất nhiên nhà phê bình đã rất chặt chẽ, trong một rào đón để cho thấy đấy là so thời với thời, chứ không so cá nhân với cá nhân. Bởi so cá nhân thì có tên tuổi nào của thời hiện đại dám sánh ngang với Nguyễn Du, Nguyễn Trãi - là những thiên tài dân tộc, kết tinh của nhiều trăm năm văn hóa, văn hiến Việt Nam. Đó cũng là hiện tượng giúp ta hiểu, sự phát triển của khoa học, công nghệ là sự phủ định và tiếp tục; còn ở các lĩnh vực văn học, nghệ thuật lại là sự sáng tạo để không lặp lại, và do thế, không phải ai đến sau là nhất định phải hơn người trước; đã là Lep Tonxtôi thì phải vượt Sếchxpia; đã là Nguyễn Du thì phải hơn Nguyễn Trãi v.v...

Dĩ nhiên khi đất nước còn bị nô lệ, khi nhân dân còn trong tăm tối, nghèo khổ thì việc đòi quyền cá nhân cho một lớp người mới sinh ra trong đời sống đô thị - những cô Mai không chịu làm lẽ; những cô Nhung đòi quyền tái giá; những kiểu và cách yêu khác nhau trong Xuân Diệu, Nguyễn Bính; quyền được buồn, được cô đơn trong Huy Cận, Chế Lan Viên... xem ra là có vẻ lạc lõng. Nhưng dẫu là lạc lõng, nó vẫn là một hiện hữu, tồn tại, báo hiệu sự ra đời một chủ thể mới, dẫu còn èo uột, một hình thái xã hội mới, một phương thức sản xuất mới dẫu chỉ là manh nha, nhưng vẫn nhiều lần cao hơn, văn minh hơn chế độ phong kiến trung cổ. Sự hình thành cái cá nhân và nhu cầu giải phóng cá nhân này vừa mới cất lên được tiếng nói của nó trong văn chương lãng mạn từ 1925 đến 1945, thì sau 1945 - do yêu cầu cách mạng và do hoàn cảnh chiến tranh kéo dài, và tiếp đó, do một định hướng phát triển xã hội không thuận theo quy luật nên bị phê phán và vùi dập trong hơn 40 năm. Một áp lực ghê gớm của thời cuộc - của các thiết chế và ý thức hệ chính thống khiến cho bất cứ cá nhân nào, dẫu có ngông nghênh, kiêu bạc, tài năng, cốt cách hơn người đến đâu cũng đều thúc thủ, chịu nép một bề, trong những phê bình, sám hối. Cố nhiên trong buổi đầu tiếp xúc với cách mạng, từ trong bóng tối của xã hội cũ bước ra, cái cá nhân vừa mới hình thành đã bị choáng ngợp trước sức mạnh và vẻ đẹp của cộng đồng, mà theo cách nói quen thuộc của một thời, đó là Đoàn thể: “Đoàn thể đã tái tạo chúng tôi, và trong bầu không khí mới của giang sơn, chúng tôi, những nạn nhân của thời đại chữ “tôi”, hay muốn gọi là tội nhân cũng được, chúng tôi thấy rằng đời sống riêng của cá nhân không có nghĩa gì trong đời sống bao la của Đoàn thể” (Hoài Thanh)(2). “Đoàn thể, đó là một cái gì rất thiêng liêng... Nước nhà đang cần đến những bàn tay, những hy sinh” (Nam Cao)(3). Nhưng rồi, cùng với thời gian, theo sự xiết chặt của hệ tư tưởng chính thống, trong bối cảnh một cuộc chiến khốc liệt giải phóng dân tộc và trong kiên trì con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, cái cá nhân dần dần bị dồn ép và mất hết đất đai cho sự tồn tại, rồi trở thành đối tượng của sự chuyên chính của Đoàn thể qua rất nhiều vụ, việc lớn nhỏ, trong đời sống chính trị cũng như trong văn chương, học thuật... Gần đây, trong tùy bút Đi tìm cái tôi đã mất (được đưa lên mạng, nên có rất nhiều người đọc), nhà văn vừa quá cố Nguyễn Khải đã qua bản thân mình mà diễn giải khá sâu về hiện tượng này. Đó là bài viết gợi được nhiều ý, nhiều chuyện cần bàn, trong nhiều chiều, và có thể là trái ngược nhau; khoanh vùng trong phạm vi văn chương, tôi chỉ muốn lưu ý một điều: Việc đánh mất ấy, - nếu thật sự có đánh mất, là có nhiều lý do, trong đó có lý do ở chính các nhà văn, trong những băn khoăn thành tâm về những gì gọi bằng “lột xác”, “lột vỏ”, “nhận đường”, kể cả những sám hối... Nhưng giá nhà văn có vì các lý do khách quan, hoặc chủ quan nào đó mà tự đánh mất hoặc bị tước mất cái cá nhân một cách buồn thảm như Nguyễn Khải kể, thì những gì đã được họ tạo ra vào thời ấy, cũng không phải tất cả đều là của giả hoặc đáng bỏ đi - Ngay cả đối với Nguyễn Khải. Và đây là câu chuyện còn cần phải nghĩ ngẫm và bàn luận nhiều... Thời Đổi mới và hội nhập là thời khởi động trở lại vai trò cá nhân, sự tôn trọng cá nhân; và với chuyển động này, cái cá nhân dần dần được hồi sức và bù đắp sinh khí, để trở thành động lực mới cho sự phát triển, trên tất cả các phương diện của đời sống vật chất và tinh thần. Lần đầu tiên sau hơn nửa thế kỷ vai trò các doanh nhân được tôn vinh, kể từ khởi động đầu tiên là sự tôn trọng quyền tư hữu (sau một thời gian dài bị xóa sổ, để thay cho công hữu). Tiếp đó là sự khuyến khích việc làm giàu cho bất cứ ai muốn và có khả năng làm giàu - tất nhiên một cách chính đáng; và hẳn cũng không thiếu một tỷ lệ làm giàu bất chính đã phải (hoặc còn chưa bị) ra tòa; là cách nghĩ dân có giàu thì nước mới mạnh, chứ không phải là sự tự mãn với một cái lý lịch nghèo hèn “ba đời khốn nạn” (như cách nói của Nguyên Hồng), với hướng giải quyết quen thuộc trong lịch sử các cuộc khởi nghĩa nông dân là chia của nhà giàu cho người nghèo, cho đến Cải cách ruộng đất là chia “quả thực”; hoặc chia đều cái nghèo, cái đói cho mọi người theo chủ nghĩa bình quân; để rồi, muốn hoặc không muốn, đẩy cả dân tộc xuống một trình độ sống hạ đẳng, có chung gương mặt của người “mất sổ gạo”. Và khi đã hết tâm lý kỳ thị sự giàu có, khi đã biết gắn cái nghèo với sự hèn, khi quyền tư hữu được pháp luật tôn trọng - về phương diện vật chất, thì trong đời sống tinh thần, cái riêng của mỗi cá thể mới có quyền tồn tại, và cần được tìm đến như một vị trí, một tư thế trong cộng đồng, từ đó đem lại sự sống động và phong phú các phong cách riêng trong sáng tạo văn chương- nghệ thuật.

Đây là thực trạng thứ hai, trong cách nghĩ của tôi, nó là cơ sở cho những phát triển mới của đời sống văn hóa, tinh thần, làm thay đổi đời sống xã hội và gương mặt con người. Tất nhiên, nó vẫn cứ là một phát triển còn gây tranh cãi; và cũng có rất nhiều khía cạnh gây âu lo, vì giữa sự phát triển cá nhân và cá nhân chủ nghĩa vẫn có một ranh giới không dễ xác định. Đi tìm cái riêng, cái đơn nhất, cái khác nhau, là lẽ tồn tại trong các sáng tạo tinh thần; nhưng đó là việc khó, vô cùng khó. Bởi nó là sản phẩm của những tài năng, của thiên tài. Mà tài năng thường là hiếm - nói như Lênin. Tài năng còn là phẩm chất gắn với nhân cách, đạo đức, đạo lý... Tức là một thuộc tính nằm trong chủ nghĩa nhân văn, gắn với chất người, với lòng yêu thương, trân trọng con người, trước hết là những người thấp cổ bé họng, dường như thời nào cũng có, làm nên bộ phận chúng sinh đông đảo nhất. Là cách sống “mình vì mọi người” mà bất cứ sự phát triển xã hội nào cũng đều phải dùng làm thước đo cho trình độ văn minh và nhân bản. Là sự khiêm nhường, biết khép mình, tránh mọi bon chen, nhường chỗ rộng cho thiên hạ, mà những gương mặt trí thức chân chính (tôi nhấn mạnh sự chân chính) nơi đâu cũng đều có - để phân biệt với thế giới những ai muốn là trí thức nhưng lại chưa đủ sự trang bị nên phải tìm cách đánh bóng tên tuổi bằng tiền, và bằng nhiều cách thức, kể cả những vụ “đốt đền”. Hoặc là có tri thức mà tự làm hỏng mình đi vì những kiêu căng, khinh bạc vô lối, rẻ rúng di sản của ông cha, rẻ rúng ngay cả những người ruột thịt hoặc là các bậc thầy của mình. Lớp người quen tranh lấy phần được bằng cách hạ nhục, bước qua đầu, dẫm lên chân người khác, không lúc nào là không có, và dường như bây giờ càng không hiếm.

Cố nhiên nói đến văn chương, nghệ thuật là nói đến sự sáng tạo, để luôn có cái mới, để không lặp lại người khác và lặp lại chính mình. Do vậy đây là câu chuyện tế nhị và khó bàn khi đi vào cụ thể những tìm tòi rất muôn vẻ, với rất nhiều kiểu dạng trong đời sống văn chương- nghệ thuật gần đây, có mặt ở khắp các lĩnh vực thơ, văn, nhạc, họa, kiến trúc, điện ảnh... Bởi mọi đánh giá cần dựa vào nhiều tiêu chí, trong đó có tiêu chí phổ quát chung cho nhân quần, cũng lại có tiêu chí thuộc về tri thức chuyên sâu, khi sự chuyên nghiệp hóa đương là mục tiêu đặt ra cho tất cả mọi ngành nghề trong xã hội. Cái được công chúng phổ cập yêu thích có khi lại đứng ra ngoài sự quan tâm của các đẳng cấp chuyên gia. Nhiều giải Nobel văn chương không phải tất cả được mọi người đọc. Sự yêu thích của lớp người này gặp phải sự hờ hững, chê bai của một lớp người khác. Những khác nhau, hoặc đối lập nhau trong thưởng thức, khen chê đó là chuyện bình thường. Nhưng dẫu vậy, vẫn phải có một mẫu số chung cho mọi tìm kiếm và đánh giá - hàng nghìn năm qua đã thế, và bây giờ cũng thế, đó là khát vọng Chân-Thiện-Mỹ chung cho nhân loại; và là sự khơi rộng chứ không phải là đi ngược hoặc đi chệch ra ngoài truyền thống văn hóa, văn hiến, văn minh dân tộc.

Nhìn rộng ra toàn cảnh sinh hoạt xã hội, khi cái cá nhân được quyền tồn tại theo cách riêng của nó, thì giữa các cá nhân với nhau, và giữa cá nhân với cộng đồng khó tránh những đụng độ, va chạm; những xích mích, bất đồng tình, mà sự điều hòa, không thể chỉ dựa vào hiến pháp, luật pháp. Từ sự khẳng định cá nhân đến việc chạy đuổi theo lợi ích cá nhân, khó tránh va chạm và gây tổn thương cho người khác. Khi pháp luật chưa hoàn thiện, và khi bộ máy quản lý xã hội còn không ít những kẻ bất tài và vô tâm, do những cách tuyển lựa không theo những quy chuẩn thích hợp thì sẽ có hàng trăm ngàn kẽ hở cho con người chạy đuổi theo lợi ích cá nhân, làm băng hoại xã hội. Một mặt khác, cái cá nhân, khi đã là lẽ sống để tôn thờ thì sẽ đẻ ra thói ích kỷ và vô cảm trong ứng xử của con người đối với cộng đồng. Để không lụy vào thân, người ta sẵn sàng thờ ơ với cái ác; và hệ quả là tội ác lan tràn, từ các phi vụ làm ăn của các ông chủ lớn-bé kéo theo hàng chuỗi các quan tham lại nhũng đến những vụ đâm xe, người bị nạn ngã quay bên đường, nằm chỏng chơ giữa nườm nượp người qua lại; một con nghiện có thể đâm chết người ruột thịt để có tiền chích hút; mẹ con đưa nhau ra tòa, vì một mảnh vườn hương hỏa. Nhìn vào chuyện thường ngày, cũng dễ dàng nhận ra sự lỏng lẻo trong tất cả các mối quan hệ: tình đồng chí trở thành chuyện hài hước; quan hệ thầy trò như là người mua - kẻ bán; tình bạn bè, đồng nghiệp, anh em khó có được hình hài “chí cốt” của nó, như tổ tiên cha ông truyền lại.

Cuộc sống, trong mỗi hiện tượng, mỗi sự vật bao giờ cũng gồm hai mặt. Biết vậy, nhưng để có một hình dung cụ thể về nó, cần phải trải qua nó. Những thay đổi trạng thái sống đưa tới sự thay đổi tiêu chí sống; phần linh hoạt cho ta khả năng thích ứng để không quá thấp thua thiên hạ; còn phần ổn định, cố định cho ta giữ được là mình. Lại trở lại mối quan hệ mức sống và lối sống, mà ta có thể học được ở cha ông, và ở nhiều nơi trên thế giới.

3

Chuyển đổi thứ ba, trong nhận thức của tôi - đó là sự nới rộng các mối giao lưu, từ hẹp sang rộng, từ chủ trương bế quan tỏa cảng, khép kín đối với mọi nền văn minh khác mình, buộc phải mở cửa cho văn minh phương Tây xâm nhập vào nửa sau thế kỷ XIX; và từ “phe” (trong một thế giới chia đôi) mà hòa vào một thế giới đang tan băng, để đến với những mục tiêu mà cả nhân loại cùng theo đuổi, và thoát ra khỏi thế cô lập cục bộ với nhân loại, trong nửa cuối thế kỷ XX. Từ một nước nông nghiệp lạc hậu hàng nghìn năm, sau khi giành được độc lập ta đã tiến hành công cuộc xây dựng đất nước trong hoàn cảnh chiến tranh. Là nước thuộc thế giới thứ ba, lại lâm vào hai cuộc chiến khốc liệt quá dài, trong một thế giới chia đôi, ra khỏi chiến tranh với rất nhiều thương tích, lại hướng theo một mô hình xã hội sai lầm, không thuận với quy luật, nên bước đi của dân tộc bị chậm rất nhiều, so với khu vực. Còn so với các nước tiên tiến thuộc văn minh tư bản, thì sự thấp thua là nhiều trăm năm. Trong hai cuộc Toàn cầu hóa - lần thứ nhất bắt đầu từ năm 1492 (năm Christopher Colombus phát hiện ra châu Mỹ); và lần thứ hai từ năm 1800 (sau Cách mạng tư sản Pháp 1789), ta còn là một nước lạc hậu đứng ra ngoài guồng văn minh nhân loại, thì đến cuộc Toàn cầu hóa lần thứ ba, gắn với Kỷ nguyên Thông tin và Cách mạng số, bắt đầu từ năm 2000 (sau sự kiện Bức tường Berlin đổ 1989), ta đã có một cơ hội để bước vào cùng một phòng chờ với nhiều dân tộc khác trên thế giới. Đó là một may mắn của lịch sử. Để không được chậm trễ và bỏ lỡ cơ hội, ta phải biết cách làm bạn với cả thế giới, và phải biết cách đi tắt, đón đầu. Đó là điều khó tránh. Nhưng đi tắt, đón đầu là phải bỏ qua nhiều khâu, nhiều giai đoạn quan trọng, là phải đốt cháy giai đoạn, và khó tránh vi phạm những bước tiến theo quy luật tự nhiên của lịch sử. Kinh nghiệm của những bứt phá, những đại nhảy vọt, những cuộc cách mạng với những cái tên rất kêu, và một hệ thống lý thuyết nằm trong các đường lối, cương lĩnh, nghị quyết đậm đặc ý chí luận đã gây ra bao đứt gẫy với truyền thống, và mất gốc rễ lịch sử. Do vậy nếu ở các lĩnh vực sản xuất vật chất, khoa học, công nghệ cần phải nhanh gấp đến với các mục tiêu tiên tiến, thì ở lĩnh vực văn hóa, tinh thần lại cần biết cách điều chỉnh, cân bằng để tạo một môi sinh thuận theo tâm lý, thói quen, văn hóa ứng xử, không đột ngột cắt đứt với truyền thống cha ông. Ở đây, bài học về khả năng rút ngắn con đường đi và khả năng nhảy vọt của kinh tế, kỹ thuật ở Nhật Bản quả là đầy sức thuyết phục. Bài học của một nước từ giữa thế kỷ XIX trở về trước vẫn có cùng khởi điểm với ta, còn thuộc phạm trù phương Đông lạc hậu. Cho đến nay, theo gương Nhật Bản, một số nước được xem là con rồng của Đông Á và Đông Nam Á cũng đã tiến cùng Nhật vào quỹ đạo xã hội hiện đại. Bài học Nhật Bản là bài học khẩn trương canh tân đất nước với ý thức tôn trọng, giữ gìn bản sắc và chỗ đứng của riêng mình. Bài học không cắt đứt đột ngột với quá khứ mà biết giữ gìn và tiếp nối quá khứ, trong sự nhận thức vai trò của Khổng giáo và việc sử dụng tầng lớp quý tộc Samurai - nguồn cung cấp đội ngũ cán bộ chủ chốt cho công cuộc canh tân. Bài học về sự huy động sức mạnh tổng hợp của đạo lý truyền thống và khoa học, của văn hóa và công nghệ, được đúc kết trong phương châm “Kỹ thuật phương Tây, đạo lý Nhật Bản”. Nếu công nghệ đưa trình độ sản xuất lên cao thì văn hóa giữ cho mỗi dân tộc vẫn là mình. Những cái giá phải trả nếu chỉ chọn duy nhất con đường Tây Âu hóa, như trong thế kỷ qua, tức là con đường chỉ đơn thuần dựa vào vốn, vào kỹ thuật và công nghệ của nước ngoài mà coi nhẹ hoặc bất chấp văn hóa bản địa, bất chấp nền móng dân tộc như đã diễn ra ở một số khu vực của thế giới thứ ba, sẽ dẫn ngay đến sự suy thoái kinh tế, cùng biết bao hậu quả xã hội.

Khảo sát nền văn hóa dân tộc trong nhiều nghìn năm cho ta thấy việc tiếp nhận ảnh hưởng văn hóa Trung Hoa mà vẫn giữ được gốc Việt, không bị đồng hóa trong cả nghìn năm Bắc thuộc, không chịu khuất phục trong cả nghìn năm tự chủ. Vẫn dùng chữ Hán, khi chưa có chữ riêng; và ngay cả khi đã có chữ Nôm, vẫn dùng chữ Hán để sáng tạo nên một nền văn chương- học thuật với giòng chủ lưu là giòng yêu nước, qua các tác phẩm đứng ở đỉnh cao kho tàng văn minh dân tộc... Ngót một thế kỷ chịu sự xâm lăng và thống trị của thực dân Pháp, nền văn hóa Việt Nam vẫn không bị đồng hóa; và với chữ Quốc ngữ, đến từ gốc la tinh, được sử dụng, để phổ cập di sản dân gian và Hán-Nôm truyền thống và để tiếp nhận các thành tựu của phương Tây ta đã nhanh chóng tạo được một nền văn chương- học thuật hiện đại, trong gắng gỏi đuổi kịp với trình độ chung của nhân loại. Như vậy là trong khi phấn đấu thoát ra khỏi sự phong bế (ở nhiều cấp độ), ta vẫn tạo được một cái gì vừa là của riêng mình, để không rời xa truyền thống; vừa vẫn có được cái mới - phù hợp với sự tiến triển chung, mà không bị loại ra khỏi các cuộc đua trên đại lộ của văn minh toàn cầu.


Tôi sẽ xin không đi sâu vào mục 3 này, bởi có những điều đã được nói đến trong mục 1. Để kết luận: 3 thực trạng, 3 chuyển đổi nằm trong nghĩ ngẫm của tôi về cái thời chúng ta đang sống hôm nay, đó là: từ sự phân cách, chia đôi, chuyển sang hội nhập, cộng sinh - có nghĩa là nhân rộng hơn các tiềm năng, cũng đồng thời phải biết cách ngăn ngừa, hoặc chung sống với các hiểm họa; từ cộng đồng (hoặc “đoàn thể”, theo cách nghĩ của Hoài Thanh, Nam Cao, đã dẫn trên) chuyển sang cá nhân - cá nhân trở thành động lực quan trọng cho sự phát triển; nhưng cá nhân cũng sẵn sàng nổi loạn, cho các ước vọng thoát ra khỏi các chuẩn mực của cộng đồng; và từ phong bế (ở các cấp độ khác nhau) đến sự mở rộng giao lưu và hội nhập, buộc trong đi tắt, đón đầu mà không đứt gãy với lịch sử. Đó là xu thế, là hành trình không thể tránh, với các triển vọng, và các giới hạn của nó; cả hai phương diện phải được nhận thức thấu đáo, mới tạo được sự thăng bằng, sự bình ổn trong phát triển.

P.L

(251/01-2010)



 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • THÁI DOÃN HIỂUPhàm trần chưa rõ vàng thauChân tâm chẳng biết ở đâu mà tìm.                                VẠN HẠNH Thiền sư

  • HỒ THẾ HÀ  Thi ca là một loại hình nghệ thuật ngôn từ đặc biệt. Nó là điển hình của cảm xúc và tâm trạng được chứa đựng bởi một hình thức - “hình thức mang tính quan niệm” cũng rất đặc biệt. Sự “quái đản” trong sử dụng ngôn từ; sự chuyển nghĩa, tạo sinh nghĩa trong việc sử dụng các biện pháp tu từ; sự trừu tượng hoá, khái quát hoá các trạng thái tình cảm, hiện thực và khát vọng sống của con người; sự hữu hình hoá hoặc vô hình hoá các cảm xúc, đối tượng; sự âm thanh hoá theo quy luật của khoa phát âm thực nghiệm học (phonétique  expérimentale)...đã làm cho thi ca có sức quyến rũ bội phần (multiple) so với các thể loại nghệ thuật ngôn từ khác.

  • LÊ XUÂN LÍTHỏi: Mã Giám Sinh sau khi mua được Kiều, Mã phải đưa Kiều đi ròng rã một tháng tròn mới đến Lâm Tri, nơi Tú Bà đang chờ đợi. Trên đường, Mã đâm thèm muốn chuyện “nước trước bẻ hoa”. Hắn nghĩ ra đủ mưu mẹo, lí lẽ và hắn đâm liều, Nguyễn Du viết:              Đào tiên đã bén tay phàm              Thì vin cành quít, cho cam sự đờiĐào tiên ở đây là quả cây đào. Sao câu dưới lại vin cành quít? Nguyễn Du có lẩm cẩm không?

  • CHU ĐÌNH KIÊN1. Có những tác phẩm người đọc phải thực sự “vật lộn” trên từng trang giấy, mới có thể hiểu được nhà văn muốn nói điều gì. Đó là hiện tượng “Những kẻ thiện tâm” (Les Bienveillantes) của Jonathan Littell. Một “cas” được xem là quá khó đọc. Tác phẩm đã đạt hai giải thưởng danh giá của nước Pháp là: giải Goncourt và giải thưởng của Viện hàn lâm Pháp.

  • PHONG LÊSinh năm 1893, Ngô Tất Tố rõ ràng là bậc tiền bối của số rất lớn, nếu không nói là tất cả những người làm nên diện mạo hiện đại của văn học Việt Nam thời 1932-1945. Tất cả - gồm những gương mặt tiêu biểu trong phong trào Thơ mới, Tự Lực văn đoàn và trào lưu hiện thực đều ra đời sau ông từ 10 đến 20 năm, thậm chí ngót 30 năm.

  • HẢI TRUNGHiện tượng ngôn ngữ lai tạp hay gọi nôm na là tiếng bồi, tiếng lơ lớ (Pidgins và Creoles) được ngành ngôn ngữ học đề cập đến với những đặc trưng gắn liền với xã hội. Nguồn gốc ra đời của loại hình ngôn ngữ này có nhiều nét khác biệt so với ngôn ngữ nói chung. Đây không chỉ là một hiện tượng cá thể của một cộng đồng ngôn ngữ nào, mà nó có thể phát sinh gắn liền với những diễn biến, những thay đổi, sự phát triển của lịch sử, xã hội của nhiều dân tộc, nhiều quốc gia khác nhau.

  • BÙI NGỌC TẤN... Đã bao nhiêu cuộc hội thảo, bao nhiêu cuộc tổng kết, bao nhiêu cuộc thi cùng với bao nhiêu giải thưởng, văn chương của chúng ta, đặc biệt là tiểu thuyết vẫn chẳng tiến lên. Rất nhiều tiền của bỏ ra, rất nhiều trí tuệ công sức đã được đầu tư để rồi không đạt được điều mong muốn. Không có được những sáng tác hay, những tác phẩm chịu được thử thách của thời gian. Sự thất thu này đều đã được tiêu liệu.

  • NGUYỄN HUỆ CHICao Bá Quát là một tài thơ trác việt ở nửa đầu thế kỷ XIX. Thơ ông có những cách tân nghệ thuật táo bạo, không còn là loại thơ “kỷ sự” của thế kỷ XVIII mà đã chuyển sang một giọng điệu mới, kết hợp tự sự với độc thoại, cho nên lời thơ hàm súc, đa nghĩa, và mạch thơ hướng tới những đề tài có ý nghĩa xã hội sâu rộng.

  • NGUYỄN TRƯƠNG ĐÀNĐã nhiều sử liệu viết về cuộc xử án vua Duy Tân và các lãnh tụ khởi xướng cuộc khởi nghĩa bất thành tháng 5-1916, mà trong đó hai chí sĩ Thái Phiên - Trần Cao Vân là hai vị đứng đầu. Tất cả các sử liệu đều cho rằng, việc hành hình đối với Thái Phiên, Trần Cao Vân, Tôn Thất Đề, Nguyễn Quang Siêu diễn ra vào sáng ngày 17-5-1916. Ngay cả trong họ tộc hai nhà chí sĩ, việc ghi nhớ để cúng kỵ, hoặc tổ chức kỷ niệm cũng được tính theo ngày như thế.

  • PHONG LÊBây giờ, sau 60 năm - với bao là biến động, phát triển theo gia tốc lớn của lịch sử trong thế kỷ XX - từ một nước còn bị nô lệ, rên xiết dưới hai tầng xiềng xích Pháp-Nhật đã vùng dậy làm một cuộc Cách mạng tháng Tám vĩ đại, rồi tiến hành hai cuộc kháng chiến trong suốt 30 năm, đi tới thống nhất và phát triển đất nước theo định hướng mới của chủ nghĩa xã hội, và đang triển khai một cuộc hội nhập lớn với nhân loại; - bây giờ, sau bao biến thiên ấy mà nhìn lại Đề cương về văn hoá Việt Nam năm 1943(1), quả không khó khăn, thậm chí là dễ thấy những mặt bất cập của Đề cương... trong nhìn nhận và đánh giá lịch sử dân tộc và văn hoá dân tộc, từ quá khứ đến hiện tại (ở thời điểm 1943); và nhìn rộng ra thế giới, trong cục diện sự phát triển của chủ nghĩa tư bản hiện đại; và gắn với nó, văn hoá, văn chương - học thuật cũng đang chuyển sang giai đoạn Hiện đại và Hậu hiện đại...

  • TƯƠNG LAITrung thực là phẩm chất hàng đầu của một người dám tự nhận mình là nhà khoa học. Mà thật ra, đâu chỉ nhà khoa học mới cần đến phẩm chất ấy, nhà chính trị, nhà kinh tế, nhà văn hoá... và bất cứ là "nhà" gì đi chăng nữa, trước hết phải là một con người biết tự trọng để không làm những việc khuất tất, không nói dối để cho mình phải hổ thẹn với chính mình. Đấy là trường hợp được vận dụng cho những người chưa bị đứt "dây thần kinh xấu hổ", chứ khi đã đứt mất cái đó rồi, thì sự cắn rứt lương tâm cũng không còn, lấy đâu ra sự tự phản tỉnh để mà còn biết xấu hổ. Mà trò đời, "đã trót thì phải trét", đã nói dối thì rồi cứ phải nói dối quanh, vì "dại rồi còn biết khôn làm sao đây".

  • MÃ GIANG LÂNVăn học tồn tại được nhiều khi phụ thuộc vào độc giả. Độc giả tiếp nhận tác phẩm như thế nào? Tiếp nhận và truyền đạt cho người khác. Có khi tiếp nhận rồi nhưng lại rất khó truyền đạt. Trường hợp này thường diễn ra với tác phẩm thơ. Thực ra tiếp nhận là một quá trình. Mỗi lần đọc là một lần tiếp nhận, phát hiện.

  • HÀ VĂN LƯỠNGTrong dòng chảy của văn học Nga thế kỷ XX, bộ phận văn học Nga ở hải ngoại chiếm một vị trí nhất định, tạo nên sự thống nhất, đa dạng của thế kỷ văn học này (bao gồm các mảng: văn học đầu thế kỷ, văn học thời kỳ Xô Viết, văn học Nga ở hải ngoại và văn học Nga hậu Xô Viết). Nhưng việc nhận chân những giá trị của mảng văn học này với tư cách là một bộ phận của văn học Nga thế kỷ XX thì dường như diễn ra quá chậm (mãi đến những thập niên 70, 80 trở đi của thế kỷ XX) và phức tạp, thậm chí có ý kiến đối lập nhau.

  • TRẦN THANH MẠILTS: Nhà văn Trần Thanh Mại (1908-1965) là người con xứ Huế. Tên ông đã được đặt cho một con đường ở đây và một con đường ở thành phố Hồ Chí Minh. Trần Thanh Mại toàn tập (ba tập) cũng đã được Nhà xuất bản Văn học phát hành năm 2004.Vừa rồi, nhà văn Hồng Diệu, trong dịp vào thành phố Hồ Chí Minh dự lễ kỷ niệm 100 năm ngày sinh nhà văn Trần Thanh Mại, đã tìm thấy trang di cảo lưu tại gia đình. Bài nghiên cứu dưới đây, do chính nhà văn Trần Thanh Mại viết tay, có nhiều chỗ cắt dán, thêm bớt, hoặc mờ. Nhà văn Hồng Diệu đã khôi phục lại bài viết, và gửi cho Sông Hương. Chúng tôi xin cám ơn nhà văn Hồng Diệu và trân trọng giới thiệu bài này cùng bạn đọc.S.H

  • TRẦN HUYỀN SÂMLý luận văn học và phê bình văn học là những khái niệm đã được xác định. Đó là hai thuật ngữ chỉ hai phân môn trong Khoa nghiên cứu văn học. Mỗi khi khái niệm đã được xác định, tức là chúng đã có đặc trưng riêng, phạm trù riêng. Và vì thế, mục đích và ý nghĩa của nó cũng rất riêng.

  • TRẦN THÁI HỌCCó lẽ chưa bao giờ các vấn đề cơ bản của lý luận văn nghệ lại được đưa lên diễn đàn một cách công khai và dân chủ như khi đất nước bước vào thời kỳ đổi mới. Vấn đề tuyên truyền trong nghệ thuật tuy chưa nêu thành một mục riêng để thảo luận, nhưng ở nhiều bài viết và hội nghị, chúng ta thấy vẫn thường được nhắc tới.

  • NGUYỄN TRỌNG TẠO...Một câu ngạn ngữ Pháp nói rằng: “Khen đúng là bạn, chê đúng là thầy”. Câu ngạn ngữ này đúng trong mọi trường hợp, và riêng với văn học, Hoài Thanh còn vận thêm rằng: “Khen đúng là bạn của nhà văn, chê đúng là thầy của nhà văn”...

  • BẢO CHI                 (lược thuật)Từ chiều 13 đến chiều 15-8-2003, Hội nghị Lý luận – Phê bình văn học (LL-PBVH) toàn quốc do Hội Nhà văn Việt Nam tổ chức đã diễn ra tại khu nghỉ mát Tam Đảo có độ cao 1.000 mét và nhiệt độ lý tưởng 23oc. Đây là hội nghị nhìn lại công tác LL-PBVH 28 năm qua kể từ ngày đất nước thống nhất và sau 54 năm Hội nghị tranh luận Văn nghệ tại Việt Bắc (1949). Gần 200 nhà LL-PB, nhà văn, nhà thơ, nhà báo và khách mời họp mặt ở đây đã làm nóng lên chút đỉnh không khí ôn hoà của xứ lạnh triền miên...

  • ĐỖ LAI THÚY                Văn là người                                  (Buffon)Cuốn sách thứ hai của phê bình văn học Việt Nam, sau Phê bình và cảo luận (1933) của Thiếu Sơn, thuộc về Trần Thanh Mại (1911 - 1965): Trông dòng sông Vị (1936). Và, mặc dù đứng thứ hai, nhưng cuốn sách lại mở đầu cho một phương pháp phê bình văn học mới: phê bình tiểu sử học.

  • ĐẶNG TIẾNThuật ngữ Thi Học dùng ở đây để biểu đạt những kiến thức, suy nghĩ về Thơ, qua nhiều dạng thức và trong quá trình của nó. Chữ Pháp là Poétique, hiểu theo nghĩa hẹp và cổ điển, áp dụng chủ yếu vào văn vần. Dùng theo nghĩa rộng và hiện đại, theo quan điểm của Valéry, được Jakobson phát triển về sau, từ Poétique được dịch là Thi Pháp, chỉ chức năng thẩm mỹ của ngôn từ, và nới rộng ra những hệ thống ký hiệu khác, là lý thuyết về tính nghệ thuật nói chung. Thi Học, giới hạn trong phạm vi thi ca, là một bộ phận nhỏ của Thi Pháp.