Trước thềm điện Diên Thọ bàn chuyện thưởng trà xưa nay

10:52 16/10/2008
TRẦN ĐÌNH SƠNĐất Việt là cái nôi sinh trưởng của cây trà và người Việt biết dùng trà làm thức uống thông thường, lễ phẩm cúng tế, dâng tặng, ban thưởng từ hàng ngàn năm nay.

Vào thời Đường (619 - 907), các vị cao tăng ở Giao Châu như Định - Không trưởng lão, Duy - Giám pháp sư… thường được thỉnh sang Kinh đô Trường An (Trung Quốc) thuyết giảng kinh Phật. Giới văn, thi nhân Trung Quốc rất kính trọng, hâm mộ và có giao tình thân thiết với các nhà sư Việt. Thơ từ xướng họa của họ còn lưu lại trong sử sách (xem Kiến văn tiểu lục của Lê Quý Đôn - Toàn Đường Thi).
Qua việc giao lưu, truyền bá đạo Phật có thể “Trà thang lễ” theo Bách Trượng thanh quy và “Trà Kinh” của Lục Vũ đã được giới tăng sĩ phổ biến trong chùa chiền ở Giao Châu. Dần dần việc uống trà nâng lên thành sinh hoạt văn hóa, thú vui tao nhã di dưỡng tinh thần, tu tâm dưỡng tính. Tiến sĩ Trương Tịch làm thơ tặng Nhật tăng có câu:

“Thứu thạch tân khai tỉnh,
Xuyên lâm tự chủng trà”.
Nghĩa:
Lật đá khơi giếng m
ới,
Mở rừng tự trồng chè.
Bước vào giai đoạn độc lập, tự chủ đầu tiên, Vua Đinh (970 - 979) dùng trà thơm đặc sản của nước Việt dâng cống Vua Tống (Theo sách An Nam chí lược của Lê Tắc). Sang thời Lý (1010 - 1225), Thiền sư Viên Chiếu dùng trà tiễn bạn đi xa:
“Tặng quân thiên lý viễn,
Tiếu ngã nhất trà bình”.
Nghĩa:
Tặng ông lúc đi xa ngàn dặm
Cười tôi chỉ một bình trà
Ngày xưa chùa chiền thường tọa lạc ở chốn núi đồi thanh vắng nên trồng trà còn là nguồn lợi phục vụ đời sống:
“Sơn tăng hoạt kế trà tam mẫu,
Ngư phủ sinh nhai trúc nhất cần”.
Nghĩa:
Thầy tu ở núi trồng ba mẫu trà làm kế sinh hoạt,
Ông chài dùng một cần câu lo việc mưu sinh
Triều Lê, Nguyễn Trãi (1380 - 1442) viết sách: “An nam vũ cống” (Dư địa chí) ghi nhận tại châu Sa - Bôi (Quảng Trị) sản xuất loại trà lưỡi sẻ (tước thiệt) rất thơm ngon. Suốt đời ông luôn luôn mơ ước có ngày:
“Hà thời kết ốc vân phong hạ
Cấp giản phanh trà chẩm thạch miên”
Dịch thơ:
Bao giờ dưới núi làm nhà,
Nước khe gối đá pha trà ngủ say
                                                            (Vũ Thế Ngọc)

Dương Văn An (1514 - 1591) triều Mạc Quang Bảo nhuận sắc tác phẩm “Ô Châu cận lục” viết: trà ở huyện Kim trà (nay là Hương Trà - Thừa Thiên Huế) tên gọi lưỡi sẻ (tước thiệt) trồng tại vùng đồi núi An Cựu giải khát, trừ phiền, chữa thũng, đứng đầu trăm loại thảo, dược tính linh diệu”.
Danh sĩ Phạm Đình Hổ (1768 - 1839) mô tả việc uống trà ở Bắc Hà như sau: “Ta sinh trưởng đương lúc thịnh thời Cảnh - Hưng. Các nhà quý tộc, công hầu, con em nhà quý thích đều đua chuộng xa xỉ. Có khi mua một bộ ấm chén phí tổn đến vài mươi lượng bạc… Thậm chí có kẻ đặt tiền sẵn mua cho được hiệu trà Chính Sơn, gởi tàu buôn đặt cho được ấm chén kiểu mới lạ… Lò, siêu, ấm chén lại chế ra nhiều kiểu thích dụng… Vì uống chè ấm chén cốt cho nhỏ, mỏng, khi pha mới nổi hương vị. Vòi ấm thẳng thì nước không đọng, mặt dĩa phẳng thì đặt chén không nghiêng. Đế lò dầy mà lỗ thưa thì than lửa không bốc nóng quá. Lòng ấm siêu lồi lên và mỏng thì sức lửa dễ thấu, chóng sôi… Gần đây lại có chế tạo ra thứ siêu đồng, không bằng dùng siêu đất nung pha chè tốt hơn.” (Vũ Trung tùy bút).

Nhà bác học Lê Quý Đôn (1726 - 1784) năm 1775 vào tiếp quản Phú Xuân (Huế) tả cảnh uống trà thời chúa Nguyễn: “Binh lính cũng đều ngồi chiếu mây, có gối dựa. Bên cạnh đặt lư đồng, pha chè Tàu ngon để uống, dùng chén sứ bịt bạc, ống nhổ bằng thau.” (Phủ Biên tạp lục).
Cao Bá Quát (1809 - 1854) bày tỏ quan niệm thưởng trà của mình qua bài: “Vị minh tiểu kệ”.
Chọn bạn chọn bề ngoài,
Không thấy điều hẳn hoi.
Uống  trà có ướp hoa,
Biến mất hương trà rồi.
Sáng sớm múc nước giếng,
Lửa nhỏ nắm than rời
Không khói cũng không bụi
Rửa tay khề khà ngồi
Nếm mùi cốt thực chất
Không cần thêm vị ngoài
Chớ vì chút của hiếm
Lừa dối mũi ta hoài
Người đẹp không ở áo
Thơ hay thường ít lời
Kệ này hãy ghi nhớ
Chứng quả việc trên đời
(Vũ Thế Ngọc dịch)

Thời cận đại nhà văn Nguyễn Tuân (1910 - 1987) viết truyện: “Chén trà trong sương sớm”, tả việc thưởng trà: “La liệt trên chiếu cói cạp điều, Cụ ấm đã bày lên đấy khay trà, ống nhổ, ấm đồng và hỏa lò đất. Cái điếu bát vẽ mai hạc kêu vang lên một hồi rất giòn, rất đều… Cụ khẽ nâng vuông vải tây điều phủ trên khay trà gỗ trắc có chân quỳ. Nhẹ nhàng khoan thai, Cụ ấm nhắc cả dĩa dầm, chén tống, chén quân ra khỏi lòng khay. Đến lúc rờ tới cái ấm con chuyên trà thì cụ kềnh càng hơn. Cụ ngắm nghía mãi chiếc ấm màu đỏ da chu bóng không chút gợn. Dáng ấm làm theo hình quả sung… Trên chiếc hỏa lò để không, cụ đặt thêm một ấm cò bay khác…”.
Qua các cứ liệu chính xác nêu trên chúng ta thấy rằng từ xưa đến nay, tại Việt Nam chưa từng nâng việc uống trà thành “trà đạo” như ở Nhật Bản, cũng khác với cách thưởng trà của người Trung Quốc từ triều Thanh về sau.

Người Việt xem trà là thú tao nhã như cầm, kỳ, thi, họa để di dưỡng tinh thần. Thời Lý, Trần dùng trà tươi hay bánh trà khô nấu trong nồi lớn rồi chế vào bát để uống. Từ triều Lê, Nguyễn về sau loại trà này chỉ dành cho giới bình dân, riêng vua chúa, tầng lớp quyền quý  ưa thích dùng trà rời hong sấy khô nhập từ Trung Quốc sang (gọi là trà Tàu) như Chính Sơn, Long Tĩnh, Bảo Vân... Hoặc trà mạn ướp sen, Tuyết Sơn của miền Bắc Việt :
“Làm trai biết đánh tổ tôm,
Uống trà mạn hảo, ngâm nôm Thúy Kiều”.
Trà cụ truyền thống Việt Nam gồm:

Ấm
chén:
- Ấm chuyên trà: dùng loại ấm sứ hoặc ấm đất Nghi Hưng được người xưa xếp hạng: thứ nhất Thế Đức gan gà, thứ nhì Lưu Bội, thứ ba Mạnh Thần. Tùy ít hay nhiều người uống mà chọn ấm độc ẩm (một người uống), song ẩm (hai người), quần ẩm (ba hay bốn người).
- Bộ chén trà: chế tạo tại Cảnh Đức trấn gồm chén tống đặt trong dĩa dầm, ba hay bốn chén quân để trong dĩa bàn.
Từ thế kỷ 17 - 19 tầng lớp quyền quý, giàu sang nước ta thường gửi kiểu cách qua các lò sứ danh tiếng ở Cảnh Đức Trấn đặt làm riêng đồ dùng trong đó có đồ trà. Người sành điệu cầu kỳ phải sắm đủ bốn kiểu ấm chén thưởng trà theo bốn mùa xuân, hạ, thu, đông, với đề tài trang trí, thơ văn do tự mình sáng tác hay chọn lựa cho phù hợp. Ngoài ra nhà buôn Trung Quốc cũng tìm hiểu thị hiếu của người Việt từng miền Bắc, Trung, rồi chế tạo ấm, chén bình thường mang qua bán. Pha trà kỵ nhất là dùng ấm, chén bằng kim loại. Tốt nhất là dùng ấm chuyên bằng đất và chén bằng sứ.

Khay, kỷ trà:
- Khay trà: hình chữ nhật hay hình vuông làm bằng gỗ quý chạm khắc hoa văn, cẩn xà cừ. Loại đặc biệt làm bằng tre già, đồi mồi, ngà voi. Kiểu cách khác nhau, loại chân quỳ dạ cá hoặc chân thấp thành lựu, bàn toán tùy theo sở thích.
- Kỷ trà: là cái bàn nhỏ, chân cao, kiểu cách thanh nhã để bày khay, ấm, chén. Người thưởng trà ngồi ghế tựa quanh bàn. Nếu kỷ trà chân thấp thì đặt trên sập hoặc ván ngựa để bày đồ thưởng trà .
Hỏa lò, siêu đun nước:
- Có nhiều kiểu dáng làm bằng đồng hoặc bằng đất trong nước hay nhập từ Trung Quốc về. Kiểu siêu có tay cầm thường gọi là ấm cò bay.
Nước pha trà:
- Tốt nhất là dùng nước suối, nước sông thượng nguồn, xa cách vùng dân cư đông đúc, mộ địa. Kế đến là nước giếng đá ở đồi, núi cao. Tại Huế, ngày xưa thường dùng nước sông Hương khoảng trước đền Ngọc Trản (Hòn Chén), nước giếng Thanh Phương (Chùa Giác Hoàng), giếng Hàm Long (Chùa Báo Quốc), giếng Cam Lộ (dưới núi Túy Vân).
Pha trà phải đun nước sôi già đúng 100ºC. Để nguội bớt còn từ 90º đến 95ºC, pha các loại trà hồng như Thiết Quan âm, Thiết La - Hán, Ô Long… (Trung Quốc) hoặc trà mạn ướp sen (Việt ). Pha các loại trà xanh như Long tỉnh, Sư phong, Thiên vụ… (Trung Quốc) hay trà Thái Nguyên, Bảo Lộc nước nóng từ 85º đến 90ºC. Một ấm trà chỉ nên chế từ 2 đến 3 lần. Không nên dùng trà ngâm trong ấm lâu đã nguội lạnh.

Người Việt thưởng trà vào buổi sớm mai hay lúc đêm thanh canh vắng, một mình đối bóng suy nghiệm thế thái nhân tình. Có khi cùng với bạn tâm giao, tri âm, tri kỷ bàn chuyện văn chương kim cổ, suy thịnh việc đời. Nhìn bộ đồ trà ký kiểu là đoán biết được giai tầng xã hội, tâm ý, trình độ của chủ nhân. Chọn bộ đồ trà làm tặng phẩm, là gửi gắm tình cảm lời cầu chúc tốt lành thích hợp đến người nhận. Biết bao biểu tượng, điển tích, lịch sử, thi họa dùng làm đề tài trang trí cho đồ trà trải qua các thời đại…
Cảm hứng trào dâng, tôi muốn nói thêm về kỷ thuật pha chế trà, lợi ích của trà đối với sức khỏe… nhưng hoàng hôn vội buông xuống, Cung Diên Thọ rạng rỡ ánh đèn lồng. Ngồi nhìn những tà áo lụa hồng, tím, vàng mơ… thướt tha, uyển chuyển tay nâng chén trà mạn ngát hương sen thấm giọng mà tâm trí tôi mường tượng cảnh sắc nước, hương trời chốn cung cấm ngày xưa.

Lòng thầm ước ao các “Trà gia” hai bên tả, hữu chính điện Diên Thọ (Nơi các đại thần, mệnh phụ ngồi th
ưởng trà khi vào chầu thỉnh an Hoàng Thái hậu) sẽ được tôn tạo như xưa, để giới thiệu với du khách trong và ngoài nước kiểu cách thưởng trà tao nhã của người cố đô qua bốn mùa xuân, hạ, thu, đông bằng các loại danh trà nước Việt.
                        Kỷ niệm Festival Huế 2007
                                      T.Đ.S

(nguồn: TCSH số 221 - 07 - 2007)

 



----------------------
Tham khảo:
- Vũ Trung tùy bút (Phạm Đình Hổ)
- Kiến văn tiểu lục, Phủ biên tạp lục (Lê Quý Đôn)
- Vang bóng một thời (Nguyễn Tuân - 1940)
- Trà Kinh (Vũ Thế Ngọc - NXB Văn Nghệ 2006)

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NGÔ MINHHuế trên 350 năm là thủ phủ Chúa Nguyễn Đằng Trong và Kinh Đô của Đại Việt đã tích tụ nhân tài, vật lực cả quốc gia tạo ra một hệ thống Di sản văn hóa phi vật thể đặc sắc và nổi tiếng như nhã nhạc, lễ hội dân gian, văn hóa ẩm thực... Trong Di sản văn hóa ẩm thực Huế, Văn hóa ẩm thực Cung đình là bộ phận tinh hoa nhất, giá trị nhất!

  • HÀ MINH ĐỨC                   Ký Sau chặng đường dài, vượt qua nhiều đồi núi của vùng Quảng Bình, Quảng Trị, khoảng 3 giờ chiều ngày 25/9/2003, đoàn chúng tôi về đến thành phố Huế. Xe chạy dọc bờ sông Hương và rẽ vào khu vực trường Đại học Sư phạm Huế. Anh Hồ Thế Hà, Phó Chủ nhiệm khoa Văn; chị Trần Huyền Sâm, giảng viên bộ môn Lý luận văn học cùng với các em sinh viên ra đón chúng tôi. Nữ sinh mặc áo dài trắng và tặng các thầy những bó hoa đẹp.

  • BĂNG SƠN           Tuỳ bútDòng sông Hồng Hà Nội là nguồn sữa phù sa và là con đường cho tre nứa cùng lâm sản từ ngược về xuôi. Dòng sông Cấm Hải Phòng là sông cần lao lam lũ, hối hả nhịp tầu bè. Dòng sông Sài Gòn của thành phố Hồ Chí Minh là váng dầu ngũ sắc, là bóng cần cẩu nặng nề, là những chuyến vào ra tấp nập... Có lẽ chỉ có một dòng sông thơ và mộng, sông nghệ thuật và thi ca, sông cho thuyền bềnh bồng dào dạt, sông của trăng và gió, của hương thơm loài cỏ thạch xương bồ làm mê mệt khách trăm phương, đó là sông Hương xứ Huế, là dòng Hương Giang đất cố đô mấy trăm năm, nhưng tuổi sông thì không ai đếm được.

  • PHAN THUẬN THẢO                Chiều chiều trước bến Vân Lâu                Ai ngồi, ai câu, ai sầu, ai thảm,                Ai thương, ai cảm, ai nhớ, ai trông.                Thuyền ai thấp thoáng bên sông,                Đưa câu Mái đẩy chạnh lòng nước non.                                              (Ưng Bình Thúc Giạ)

  • LÃNG HIỂN XUÂNChẳng hiểu sao, từ thuở còn thơ ấu, tôi đã có một cảm nhận thật mơ hồ nhưng cũng thật xác tín rằng: Chùa chính là nơi trú ngụ của những ông Bụt hay bà Tiên và khi nào gặp khó khăn hay đau khổ ta cứ đến đó thì thế nào cũng sẽ được giải toả hay cứu giúp!

  • BÙI MINH ĐỨCNói đến trang phục của các Cụ chúng ta ngày xưa là phải nhắc đến cái búi tó và cái khăn vấn bất di bất dịch trên đầu các Cụ. Các Cụ thường để tóc dài và vấn tóc thành một lọn nhỏ sau ót trông như cái củ kiệu nên đã được dân chúng đương thời gọi là “búi tó củ kiệu”. Ngoài cái áo lương dài, cái dù đen và đôi guốc gỗ, mỗi khi ra đường là các Cụ lại bối tóc hình củ kiệu và vấn dải khăn quanh trên đầu, một trang phục mà các cụ cho là đứng đắn nghiêm trang của một người đàn ông biết tôn trọng lễ nghĩa. Trang phục đó là hình ảnh đặc trưng của người đàn ông xứ ta mãi cho đến đầu thế kỷ thứ 20 mới bắt đầu có nhiều biến cải sâu đậm

  • MAO THUỶ THANH (*)Tiếng hát và du thuyền trên sông Hương là nét đẹp kỳ thú của xứ Huế. Trên sông Hương có hai chiếc cầu bắc ngang: cầu Phú Xuân và cầu Trường Tiền nhưng trước đây người dân Huế thường có thói quen đi đò ngang. Bến đò ở dưới gốc cây bồ đề cổ thụ, nằm đối diện với trường Đại học Sư phạm Huế. Một hôm, tôi và nữ giáo sư Trung Quốc thử ngồi đò sang ngang một chuyến. Trên đò đã có mấy người; thấy chúng tôi bước xuống cô lái đò áp đò sát bến, mời chúng tôi lên đò.

  • VÕ NGỌC LANBuổi chiều, ngồi trên bến đò Quảng Lợi chờ đò qua phá Tam Giang, tôi nghe trong hư vô chiều bao lời ru của gió. Lâu lắm rồi, tôi mới lại được chờ đò. Khác chăng, trong cảm nhận tôi lại thấy bờ cát bên kia phá giờ như có vẻ gần hơn, rõ ràng hơn.

  • HỒNG NHUTôi vẫn trộm nghĩ rằng: Tạo hóa sinh ra mọi thứ: đất, nước, cây cỏ chim muông... và con người. Con người có sau tất cả những thứ trên. Vì vậy cỏ cây, đất nước... là tiền bối của con người. Con người ngoài thờ kính tổ tiên ông bà cha mẹ, những anh hùng liệt sĩ đã mất... còn thờ kính Thần Đất, Thần Nước, Thần Đá, Thần Cây...là phải đạo làm người lắm, là không có gì mê tín cả, cho dù là con người hiện đại, con người theo chủ nghĩa vô thần đi nữa! Chừng nào trên trái đất còn con người, chừng đó còn có các vị thần. Các vị vô hình nhưng không vô ảnh và cái chắc là không vô tâm. Vì sao vậy? Vì các vị sống trong tâm linh của con người, mà con người thì rõ ràng không ai lại tự nhận mình là vô tâm cả.

  • MẠNH HÀTôi không sinh ra ở Huế nhưng đã có đôi lần đến Huế, khác với Hà Nội hay Thành phố Hồ Chí Minh, Huế có nét trầm lắng, nhẹ nhàng, mỗi lần khi đến Huế tôi thường đi dạo trên cầu Trường Tiền, ngắm dòng Hương Giang về đêm, nghe tiếng ca Huế văng vẳng trên những chiếc thuyền rồng du lịch thật ấn tượng. Cho đến nay đã có biết bao bài thơ, bài hát viết về Huế thật lạ kỳ càng nghe càng ngấm và càng say: Huế đẹp, Huế thơ luôn mời gọi du khách.

  • VÕ NGỌC LANNgười ta thường nói nhiều về phố cổ Hội An, ít ai biết rằng ở Huế cũng có một khu phố cổ, ngày xưa thương là một thương cảng sầm uất của kinh kỳ. Đó là phố cổ Bao Vinh. Khu phố này cách kinh thành Huế chừng vài ba cây số, nằm bên con sông chảy ra biển Thuận An. Đây là nơi ghe, thuyền trong Nam, ngoài Bắc thường tụ hội lại, từ cửa Thuận An lên, chở theo đủ thứ hàng hoá biến Bao Vinh thành một thương cảng sầm uất vì bạn hàng khắp các chợ trong tỉnh Thừa Thiên đều tập trung về đây mua bán rộn ràng.

  • NGUYỄN XUÂN HOATrước khi quần thể di tích cố đô Huế được công nhận là di sản văn hoá thế giới, thành phố Huế đã được nhiều người nhìn nhận là một mẫu mực về kiến trúc cảnh quan của Việt Nam, và cao hơn nữa - là “một kiệt tác bài thơ kiến trúc đô thị” như nhận định của ông Amadou Mahtar  M”Bow - nguyên Tổng Giám đốc UNESCO trong lời kêu gọi tháng 11-1981.

  • DƯƠNG PHƯỚC THU                       Bút kýXứ Thuận Hóa nhìn xa ngoài hai ngàn năm trước, khi người Việt cổ từ đất Tổ Phong Châu tiến xuống phía Nam, hay cận lại gần hơn bảy trăm năm kể từ ngày vua Trần Anh Tông cho em gái là Huyền Trân Công chúa sang xứ Chàm làm dâu; cái buổi đầu ở cương vực Ô Châu ác địa này, người Việt dốc sức tận lực khai sông mở núi, đào giếng cày ruộng, trồng lúa tạo vườn, dựng nhà xây đình, cắm cây nêu trấn trị hung khí rồi thành lập làng xã.

  • TRƯƠNG THỊ CÚCSông Hương, một dòng sông đẹp, sôi nổi với những ghềnh thác đầu nguồn, mềm mại quàng lấy thành phố như một dải lụa, hài hoà tuyệt diệu với thiên nhiên xinh đẹp và hệ thống thành quách, cung điện, lăng tẩm, đền chùa; với hàng trăm điệu hò, điệu lý; với những ngày hội vật, hội đua trải, đua ghe; với mảnh vườn và con người xứ Huế, là nguồn cảm hứng vô tận của người nghệ sĩ, thu hút sự say mê của nhiều khách phương xa. Không những là một dòng sông lịch sử, sông Hương còn là không gian văn hoá làm nẩy sinh những loại hình nghệ thuật, những hội hè đình đám, là không gian của thi ca, nhạc hoạ, là dòng chảy để văn hoá Huế luân lưu không ngừng.

  • TÔN NỮ  KHÁNH TRANG              Khi bàn về văn hoá ẩm thực, người ta thường chú trọng đến ẩm thực cung đình, hay dân gian, và chủ yếu đề cập đến sinh hoạt, vai trò, địa vị xã hội... hơn là nghĩ đến hệ ẩm thực liên quan đến đời sống lễ nghi.

  • TRƯƠNG THỊ  CÚC• Bắt nguồn từ những khe suối róc rách ở vùng núi đại ngàn A Lưới - Nam Đông giữa Trường Sơn hùng vỹ, ba nhánh sông Tả Trạch, Hữu Trạch và nguồn Bồ đã lần lượt hợp lưu tạo thành hệ thống sông Hương, chảy miên man từ vùng núi trung bình ở phía đông nam A Lưới, nam Nam Đông, băng qua những dãy núi đồi chập chùng ở Hương Thuỷ, Hương Trà, Phong Điền rồi xuôi về đồng bằng duyên hải, chảy vào phá Tam Giang để đổ nước ra biển Đông.

  • NGUYỄN KHẮC MAIỞ xứ Huế có những tên làng quê mà nghĩa của chúng vẫn còn là sự ám ảnh kiếm tìm giải thích, chắc chắn chúng phải có nghĩa cụ thể nào đó. Người xưa không bao giờ đặt tên một vùng đất mà chẳng có nghĩa gì cả cứ như là người Mã Lai họ đặt tên vùng đất kinh đô cũng lần ra cái nghĩa đó là “cửa sông bùn lầy” (Kua-la-lăm-pua). Những cái tên như Kim Long, An Hoà, Dương Xuân, Phú Tài, Phú Mậu thì những ai có chút hiểu biết chữ Hán đều có thể lần tìm ý nghĩa. Nhưng có những cái tên làng quê thật khó đoán được cái nghĩa của chúng.

  • BÙI MINH ĐỨC Ngày nay, hễ nói đến đường để nấu chè là ai ai ở Huế cũng nghĩ đến đường cát trắng, đến thứ đường bột trắng tinh đã được tinh lọc do các nhà máy đường tân tiến sản xuất. Có người cũng còn nhớ đến đường phèn để chưng với chanh ăn khi bị ho, hoặc đường tinh thể là thứ đường đặc biệt màu vàng dùng để uống với cà phê cho thêm phần đậm đà. Nhưng chẳng ai có thể nhắc đến chiếc bánh đường đen ở Huế của thuở nào.

  • NGUYỄN TIẾN VỞNKinh Dịch (Chu Dịch) là sách về sự biến đổi. Dịch, nói gọn lại là biến đổi. Tinh thần xuyên suốt của Kinh Dịch là quy luật chuyển dời, biến hoá của vạn vật trong cõi trời đất. Mọi vật, bất kể to lớn như vũ trụ, hay nhỏ nhoi như các nguyên tử, đều không bao giờ đứng yên. Mọi sự, từ chuyện người có thể biết đến chuyện chỉ trời đất biết, cũng vận động biến hoá khôn lường.

  • PHAN THUẬN AN            Dạ thưa xứ Huế bây giờ,Vẫn còn núi Ngự bên bờ sông Hương.                                              (Bùi Giáng)