Trước thềm điện Diên Thọ bàn chuyện thưởng trà xưa nay

10:52 16/10/2008
TRẦN ĐÌNH SƠNĐất Việt là cái nôi sinh trưởng của cây trà và người Việt biết dùng trà làm thức uống thông thường, lễ phẩm cúng tế, dâng tặng, ban thưởng từ hàng ngàn năm nay.

Vào thời Đường (619 - 907), các vị cao tăng ở Giao Châu như Định - Không trưởng lão, Duy - Giám pháp sư… thường được thỉnh sang Kinh đô Trường An (Trung Quốc) thuyết giảng kinh Phật. Giới văn, thi nhân Trung Quốc rất kính trọng, hâm mộ và có giao tình thân thiết với các nhà sư Việt. Thơ từ xướng họa của họ còn lưu lại trong sử sách (xem Kiến văn tiểu lục của Lê Quý Đôn - Toàn Đường Thi).
Qua việc giao lưu, truyền bá đạo Phật có thể “Trà thang lễ” theo Bách Trượng thanh quy và “Trà Kinh” của Lục Vũ đã được giới tăng sĩ phổ biến trong chùa chiền ở Giao Châu. Dần dần việc uống trà nâng lên thành sinh hoạt văn hóa, thú vui tao nhã di dưỡng tinh thần, tu tâm dưỡng tính. Tiến sĩ Trương Tịch làm thơ tặng Nhật tăng có câu:

“Thứu thạch tân khai tỉnh,
Xuyên lâm tự chủng trà”.
Nghĩa:
Lật đá khơi giếng m
ới,
Mở rừng tự trồng chè.
Bước vào giai đoạn độc lập, tự chủ đầu tiên, Vua Đinh (970 - 979) dùng trà thơm đặc sản của nước Việt dâng cống Vua Tống (Theo sách An Nam chí lược của Lê Tắc). Sang thời Lý (1010 - 1225), Thiền sư Viên Chiếu dùng trà tiễn bạn đi xa:
“Tặng quân thiên lý viễn,
Tiếu ngã nhất trà bình”.
Nghĩa:
Tặng ông lúc đi xa ngàn dặm
Cười tôi chỉ một bình trà
Ngày xưa chùa chiền thường tọa lạc ở chốn núi đồi thanh vắng nên trồng trà còn là nguồn lợi phục vụ đời sống:
“Sơn tăng hoạt kế trà tam mẫu,
Ngư phủ sinh nhai trúc nhất cần”.
Nghĩa:
Thầy tu ở núi trồng ba mẫu trà làm kế sinh hoạt,
Ông chài dùng một cần câu lo việc mưu sinh
Triều Lê, Nguyễn Trãi (1380 - 1442) viết sách: “An nam vũ cống” (Dư địa chí) ghi nhận tại châu Sa - Bôi (Quảng Trị) sản xuất loại trà lưỡi sẻ (tước thiệt) rất thơm ngon. Suốt đời ông luôn luôn mơ ước có ngày:
“Hà thời kết ốc vân phong hạ
Cấp giản phanh trà chẩm thạch miên”
Dịch thơ:
Bao giờ dưới núi làm nhà,
Nước khe gối đá pha trà ngủ say
                                                            (Vũ Thế Ngọc)

Dương Văn An (1514 - 1591) triều Mạc Quang Bảo nhuận sắc tác phẩm “Ô Châu cận lục” viết: trà ở huyện Kim trà (nay là Hương Trà - Thừa Thiên Huế) tên gọi lưỡi sẻ (tước thiệt) trồng tại vùng đồi núi An Cựu giải khát, trừ phiền, chữa thũng, đứng đầu trăm loại thảo, dược tính linh diệu”.
Danh sĩ Phạm Đình Hổ (1768 - 1839) mô tả việc uống trà ở Bắc Hà như sau: “Ta sinh trưởng đương lúc thịnh thời Cảnh - Hưng. Các nhà quý tộc, công hầu, con em nhà quý thích đều đua chuộng xa xỉ. Có khi mua một bộ ấm chén phí tổn đến vài mươi lượng bạc… Thậm chí có kẻ đặt tiền sẵn mua cho được hiệu trà Chính Sơn, gởi tàu buôn đặt cho được ấm chén kiểu mới lạ… Lò, siêu, ấm chén lại chế ra nhiều kiểu thích dụng… Vì uống chè ấm chén cốt cho nhỏ, mỏng, khi pha mới nổi hương vị. Vòi ấm thẳng thì nước không đọng, mặt dĩa phẳng thì đặt chén không nghiêng. Đế lò dầy mà lỗ thưa thì than lửa không bốc nóng quá. Lòng ấm siêu lồi lên và mỏng thì sức lửa dễ thấu, chóng sôi… Gần đây lại có chế tạo ra thứ siêu đồng, không bằng dùng siêu đất nung pha chè tốt hơn.” (Vũ Trung tùy bút).

Nhà bác học Lê Quý Đôn (1726 - 1784) năm 1775 vào tiếp quản Phú Xuân (Huế) tả cảnh uống trà thời chúa Nguyễn: “Binh lính cũng đều ngồi chiếu mây, có gối dựa. Bên cạnh đặt lư đồng, pha chè Tàu ngon để uống, dùng chén sứ bịt bạc, ống nhổ bằng thau.” (Phủ Biên tạp lục).
Cao Bá Quát (1809 - 1854) bày tỏ quan niệm thưởng trà của mình qua bài: “Vị minh tiểu kệ”.
Chọn bạn chọn bề ngoài,
Không thấy điều hẳn hoi.
Uống  trà có ướp hoa,
Biến mất hương trà rồi.
Sáng sớm múc nước giếng,
Lửa nhỏ nắm than rời
Không khói cũng không bụi
Rửa tay khề khà ngồi
Nếm mùi cốt thực chất
Không cần thêm vị ngoài
Chớ vì chút của hiếm
Lừa dối mũi ta hoài
Người đẹp không ở áo
Thơ hay thường ít lời
Kệ này hãy ghi nhớ
Chứng quả việc trên đời
(Vũ Thế Ngọc dịch)

Thời cận đại nhà văn Nguyễn Tuân (1910 - 1987) viết truyện: “Chén trà trong sương sớm”, tả việc thưởng trà: “La liệt trên chiếu cói cạp điều, Cụ ấm đã bày lên đấy khay trà, ống nhổ, ấm đồng và hỏa lò đất. Cái điếu bát vẽ mai hạc kêu vang lên một hồi rất giòn, rất đều… Cụ khẽ nâng vuông vải tây điều phủ trên khay trà gỗ trắc có chân quỳ. Nhẹ nhàng khoan thai, Cụ ấm nhắc cả dĩa dầm, chén tống, chén quân ra khỏi lòng khay. Đến lúc rờ tới cái ấm con chuyên trà thì cụ kềnh càng hơn. Cụ ngắm nghía mãi chiếc ấm màu đỏ da chu bóng không chút gợn. Dáng ấm làm theo hình quả sung… Trên chiếc hỏa lò để không, cụ đặt thêm một ấm cò bay khác…”.
Qua các cứ liệu chính xác nêu trên chúng ta thấy rằng từ xưa đến nay, tại Việt Nam chưa từng nâng việc uống trà thành “trà đạo” như ở Nhật Bản, cũng khác với cách thưởng trà của người Trung Quốc từ triều Thanh về sau.

Người Việt xem trà là thú tao nhã như cầm, kỳ, thi, họa để di dưỡng tinh thần. Thời Lý, Trần dùng trà tươi hay bánh trà khô nấu trong nồi lớn rồi chế vào bát để uống. Từ triều Lê, Nguyễn về sau loại trà này chỉ dành cho giới bình dân, riêng vua chúa, tầng lớp quyền quý  ưa thích dùng trà rời hong sấy khô nhập từ Trung Quốc sang (gọi là trà Tàu) như Chính Sơn, Long Tĩnh, Bảo Vân... Hoặc trà mạn ướp sen, Tuyết Sơn của miền Bắc Việt :
“Làm trai biết đánh tổ tôm,
Uống trà mạn hảo, ngâm nôm Thúy Kiều”.
Trà cụ truyền thống Việt Nam gồm:

Ấm
chén:
- Ấm chuyên trà: dùng loại ấm sứ hoặc ấm đất Nghi Hưng được người xưa xếp hạng: thứ nhất Thế Đức gan gà, thứ nhì Lưu Bội, thứ ba Mạnh Thần. Tùy ít hay nhiều người uống mà chọn ấm độc ẩm (một người uống), song ẩm (hai người), quần ẩm (ba hay bốn người).
- Bộ chén trà: chế tạo tại Cảnh Đức trấn gồm chén tống đặt trong dĩa dầm, ba hay bốn chén quân để trong dĩa bàn.
Từ thế kỷ 17 - 19 tầng lớp quyền quý, giàu sang nước ta thường gửi kiểu cách qua các lò sứ danh tiếng ở Cảnh Đức Trấn đặt làm riêng đồ dùng trong đó có đồ trà. Người sành điệu cầu kỳ phải sắm đủ bốn kiểu ấm chén thưởng trà theo bốn mùa xuân, hạ, thu, đông, với đề tài trang trí, thơ văn do tự mình sáng tác hay chọn lựa cho phù hợp. Ngoài ra nhà buôn Trung Quốc cũng tìm hiểu thị hiếu của người Việt từng miền Bắc, Trung, rồi chế tạo ấm, chén bình thường mang qua bán. Pha trà kỵ nhất là dùng ấm, chén bằng kim loại. Tốt nhất là dùng ấm chuyên bằng đất và chén bằng sứ.

Khay, kỷ trà:
- Khay trà: hình chữ nhật hay hình vuông làm bằng gỗ quý chạm khắc hoa văn, cẩn xà cừ. Loại đặc biệt làm bằng tre già, đồi mồi, ngà voi. Kiểu cách khác nhau, loại chân quỳ dạ cá hoặc chân thấp thành lựu, bàn toán tùy theo sở thích.
- Kỷ trà: là cái bàn nhỏ, chân cao, kiểu cách thanh nhã để bày khay, ấm, chén. Người thưởng trà ngồi ghế tựa quanh bàn. Nếu kỷ trà chân thấp thì đặt trên sập hoặc ván ngựa để bày đồ thưởng trà .
Hỏa lò, siêu đun nước:
- Có nhiều kiểu dáng làm bằng đồng hoặc bằng đất trong nước hay nhập từ Trung Quốc về. Kiểu siêu có tay cầm thường gọi là ấm cò bay.
Nước pha trà:
- Tốt nhất là dùng nước suối, nước sông thượng nguồn, xa cách vùng dân cư đông đúc, mộ địa. Kế đến là nước giếng đá ở đồi, núi cao. Tại Huế, ngày xưa thường dùng nước sông Hương khoảng trước đền Ngọc Trản (Hòn Chén), nước giếng Thanh Phương (Chùa Giác Hoàng), giếng Hàm Long (Chùa Báo Quốc), giếng Cam Lộ (dưới núi Túy Vân).
Pha trà phải đun nước sôi già đúng 100ºC. Để nguội bớt còn từ 90º đến 95ºC, pha các loại trà hồng như Thiết Quan âm, Thiết La - Hán, Ô Long… (Trung Quốc) hoặc trà mạn ướp sen (Việt ). Pha các loại trà xanh như Long tỉnh, Sư phong, Thiên vụ… (Trung Quốc) hay trà Thái Nguyên, Bảo Lộc nước nóng từ 85º đến 90ºC. Một ấm trà chỉ nên chế từ 2 đến 3 lần. Không nên dùng trà ngâm trong ấm lâu đã nguội lạnh.

Người Việt thưởng trà vào buổi sớm mai hay lúc đêm thanh canh vắng, một mình đối bóng suy nghiệm thế thái nhân tình. Có khi cùng với bạn tâm giao, tri âm, tri kỷ bàn chuyện văn chương kim cổ, suy thịnh việc đời. Nhìn bộ đồ trà ký kiểu là đoán biết được giai tầng xã hội, tâm ý, trình độ của chủ nhân. Chọn bộ đồ trà làm tặng phẩm, là gửi gắm tình cảm lời cầu chúc tốt lành thích hợp đến người nhận. Biết bao biểu tượng, điển tích, lịch sử, thi họa dùng làm đề tài trang trí cho đồ trà trải qua các thời đại…
Cảm hứng trào dâng, tôi muốn nói thêm về kỷ thuật pha chế trà, lợi ích của trà đối với sức khỏe… nhưng hoàng hôn vội buông xuống, Cung Diên Thọ rạng rỡ ánh đèn lồng. Ngồi nhìn những tà áo lụa hồng, tím, vàng mơ… thướt tha, uyển chuyển tay nâng chén trà mạn ngát hương sen thấm giọng mà tâm trí tôi mường tượng cảnh sắc nước, hương trời chốn cung cấm ngày xưa.

Lòng thầm ước ao các “Trà gia” hai bên tả, hữu chính điện Diên Thọ (Nơi các đại thần, mệnh phụ ngồi th
ưởng trà khi vào chầu thỉnh an Hoàng Thái hậu) sẽ được tôn tạo như xưa, để giới thiệu với du khách trong và ngoài nước kiểu cách thưởng trà tao nhã của người cố đô qua bốn mùa xuân, hạ, thu, đông bằng các loại danh trà nước Việt.
                        Kỷ niệm Festival Huế 2007
                                      T.Đ.S

(nguồn: TCSH số 221 - 07 - 2007)

 



----------------------
Tham khảo:
- Vũ Trung tùy bút (Phạm Đình Hổ)
- Kiến văn tiểu lục, Phủ biên tạp lục (Lê Quý Đôn)
- Vang bóng một thời (Nguyễn Tuân - 1940)
- Trà Kinh (Vũ Thế Ngọc - NXB Văn Nghệ 2006)

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • Tuy chỉ là món ăn dân dã và phổ biến ở Huế, nhưng để chế biến được một tô bánh canh cá tràu ngon đúng vị… món ăn này cũng đòi hỏi người chế biến phải tỉ mẩn và khéo léo. Ở Huế, bánh canh có nhiều cách chế biến khác nhau, như bánh canh nấu tôm, chả cua, bò viên, da heo... Tuy nhiên, đặc sắc và thu hút nhất vẫn là bánh canh cá tràu (người Bắc gọi là cá quả, miền Nam gọi đó là cá lóc).

  • Huế những ngày này mưa dài lê thê. Từ sáng đến tối hầu như mưa không lúc nào ngớt. Đi kèm mưa là cái lạnh rét luồn vào da thịt, làm tím tái những khuôn mặt, bàn tay, đôi chân trần đang tất tả mưu sinh trên đường phố.

  • BẠCH LÊ QUANG

    Nghệ thuật và âm nhạc nói riêng, khi vượt qua lằn ranh của hữu hạn sẽ trở thành những sấm truyền vĩnh hằng, một thứ Kinh mà con người sẽ truyền rao trong cõi nhân sinh đầy biến động.

  • HỒ THỊ HỒNG

    Vua Thiệu Trị từng nói với bề tôi rằng: “Việc dạy học là chính sự trọng đại của triều đình”(1). Nhưng với truyền thống hiếu học của nhân dân ta, từ lâu vấn đề giáo dục đã được xã hội hóa một cách sâu rộng từ trong từng gia đình, dòng họ và toàn xã hội Việt Nam.

  • (SHO). “Đã mê ớt đỏ cay nồng
    Tìm trong vị hến một dòng Hương xanh
    Ruốc thơm, cơm nguội, rau lành
          Mời nhau buổi sáng chân thành món quê”

  • PHẠM THỊ PHƯƠNG THẢO

    Trong chuyến đi Huế dự lễ kỷ niệm ba mươi năm Tạp Chí Sông Hương vừa rồi, tôi được Tổng Biên Tập Hồ Đăng Thanh Ngọc ghé tai thông báo: “Chị cứ đi chơi Sông Hương và thăm quan quanh cố đô Huế những chỗ chưa biết, nhưng đừng nên khám phá hết để còn có cái thôi thúc mình lần sau vô  Huế mà khám phá tiếp  nữa. Nhưng dù đi đâu các anh chị cũng đừng quên đến thăm Gác Trịnh mới khánh thành nhé, hay lắm đấy, dù bận mấy  cũng nên tranh thủ ghé thăm Gác Trịnh dù là vài phút ”.

  • HỒ ĐĂNG THANH NGỌC

    Buổi sáng, tôi ngồi trong Gác Trịnh nhìn ra ngoài cửa sổ. Bên ngoài trời đang se sắt chuẩn bị mưa, sự se sắt nằng nặng.

  • PHẠM HUY THÔNG

    Đầu năm 1986, nghĩ rằng năm nay là một năm có nhiều sự kiện trọng đại diễn ra trong nước ngoài nước, tôi e rằng kỷ niệm mùa hè 200 năm trước của Phú Xuân và của dân tộc, dù không phải là không có tầm vóc, có thể chỉ được chú ý có mức độ, - nếu có được nhắc đến.

  • LÊ HUY ĐOÀN

    Những cửa thành của Kinh thành Huế ghi dấu những sự kiện từ kinh đô thất thủ ngày (23/5 năm Ất Dậu, 1885) sau cuộc chiến không cân sức giữa phe chủ chiến của triều đình Huế với giặc Pháp rồi đến sự tàn phá của thiên tai qua trận lụt 1953 làm 4 cửa thành đổ sập, rồi lại trải mình qua chiến sự Tết Mậu Thân (1968) với bao nhiêu vết hằn của bom đạn.

  • VÕ NGỌC LAN

    Như một mặc định của thời gian khi Huế là kinh đô của cả nước và nơi đây cũng là kinh đô của những chiếc áo dài. Vì vậy con gái Huế được làm quen với tà áo dài rất sớm. Bởi khi mới sinh ra đã thấy mẹ, thấy bà, thấy những người phụ nữ chung quanh khoác trên mình chiếc áo dài.

  • LÊ PHƯƠNG LIÊN 

    …Đêm đêm rì rầm trong tiếng đất
    Những buổi ngày xưa vọng nói về…

                       (Đất nước - Nguyễn Đình Thi)

  • G.S. TRẦN QUỐC VƯỢNG

    Thế kỷ XVI chứng kiến sự vỡ ra của nền quân chủ quan liêu Nho giáo Việt Nam.

  • THANH TÙNG

    Tháng 10/2012, tại khách sạn Rex - thành phố Hồ Chí Minh, chiếc bánh đậu xanh Phượng hoàng vũ khổng lồ của nghệ nhân ẩm thực Tôn Nữ Thị Hà và ái nữ Phan Tôn Tịnh Hải được vinh danh Kỷ lục châu Á - do Hội Kỷ lục châu Á công nhận.

  • HOÀNG PHỦ NGỌC PHAN

    Ở Huế có nhiều món ngon nổi tiếng như bún bò, cơm hến, dấm nuốt, bánh khoái, bèo, nậm, lọc… điều này đã được nói nhiều. Nhưng còn nhiều chuyện có thể bạn không để ý lắm.

  • NGUYỄN HUY KHUYẾN

    Vườn Thiệu Phương là một trong những Ngự uyển tiêu biểu của thời Nguyễn, từng được vua Thiệu Trị xếp là thắng cảnh thứ 2 trong 20 cảnh của đất Thần Kinh. Khu vườn này đã được đi vào thơ ca của các vua nhà Nguyễn như là một đề tài không thể thiếu.

  • VÕ NGỌC LAN 

    Đã từ lâu danh xưng mai Huế như một mặc định cho loài hoa mai có năm cánh với sắc vàng rực rỡ. Loài hoa mai ấy chỉ sinh trưởng trên đất Cố đô và cũng là đặc sản của vùng sông Hương núi Ngự.

  • LÊ VĂN LÂN

    Cuộc tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân 1968 với việc chiếm giữ Huế 26 ngày đêm đã tạo nên bước ngoặt lớn của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, làm sụp đổ chiến lược chiến tranh cục bộ của Mỹ - Ngụy, làm lung lay ý chí xâm lược của kẻ thù, buộc địch phải ngồi vào bàn đàm phán Paris.

  • NGUYỄN HỒNG TRÂN

    Câu chuyện này do nhà thơ Bích Hoàng (tức Hoàng Thị Bích Dư - cựu nữ sinh trườngĐồng Khánh - Huế) kể lại cho tôi nghe trực tiếp vào đầu năm 2012 tại nhà riêng của cô ở 170 phố Cầu Giấy, Hà Nội.

  • TRẦN BẠCH ĐẰNG

    Mỗi địa danh của đất nước ta chứa mãnh lực riêng rung động lòng người, từ những khía cạnh rất khác nhau. Có lẽ lịch sử và thiên nhiên vốn ghét bệnh "cào bằng", bệnh "tôn ti đẳng cấp" cho nên lưu dấu vết không theo một công thức nào cả. Quy luật khách quan ấy làm phong phú thêm đời sống nội tâm của dân tộc ta.

  • NGUYỄN ĐẮC XUÂN

    Đề cập đến sự nghiệp cầm bút của Thượng Chi Phạm Quỳnh cần phải có một cái viện nghiên cứu làm việc trong nhiều năm mới hiểu hết được. Do hoàn cảnh lịch sử, tôi chưa bao giờ dám nghĩ đến mình có thể tìm hiểu một khía cạnh nào đó trong sự nghiệp to lớn của ông.