Ảnh: sachxua.net
Ngẫm cho kỹ, ai trong chúng ta mà không phảng phất trong hồn mình, cả "chút máu giang hồ của tuổi trẻ" lẫn "một đứa bé ham truyện cổ tích" như chính Hoàng Phủ Ngọc Tường đã từng viết về mình như thế. Cái rạo rực của thuở ấy thèm đi đã làm ta say mê ruổi rong, lên Côn Sơn "nhìn cho đã thèm một màu trời xanh" hay ngao du nơi góc biển chân trời nào đó. Say mê trở ngược thời gian, ta náo nức trở về trong nỗi niềm nhớ nhung thơ dại, để được sống lại, cùng tác giả, những tháng năm "sống say mê và âm ỉ mộng đầy trời". Ra đi cũng là để trở về, trở về với những tháng năm, những không gian, những con người đẹp như giấc mơ mà phải đâu chỉ là ảo ảnh. Trả nợ chữ nghĩa cho cuộc đời bằng công việc viết báo, còn lại trong văn chương, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã dành lại "một nỗi hoài niệm âu yếm dành cho cái thiên đường kia, thế giới tuổi dại" (Lý chuồn chuồn), " Ngọn núi ảo ảnh" tập hợp 14 bút ký được viết trong suốt 4 - 5 năm trở lại đây, 4 - 5 năm đi về trong cõi nhớ. Chắt chiu từ những con chuồn chuồn óng ả, con ve sầu chịu giam hãm mười tám năm trong lòng đất để đổi lấy một mùa hè ca hát tự do trong nắng (Lý chuồn chuồn), qua tuổi sinh viên thơ ngây và tình ái đam mê (Tuyệt tình cốc), đến những tháng năm sau Mậu Thânvới kỷ niệm quấn quít của hoa ngàn gió núi (Như góc biển chân trời), cả về những bè bạn "góp lửa soi chung một quãng đường":Ngô Kha, Đinh Cường, Lê Bá Đảng, Bùi Giáng... "Ngọn núi ảo ảnh" đánh động trong người đọc, không phải bằng chính luận, tính thời sự vốn có của thể ký và đã có trong ký của Hoàng PhủNgọc Tường mà ta đã gặp trong "Ngôi sao trên đỉnh Phu Văn Lâu", "Rất nhiều ánh lửa"...; "Ngọn núi ảo ảnh" có cái thời sự của tâm hồn, hay đúng hơn là cái thường trực trong nỗi ám ảnh hằn sâu vào mỗi con người: chốn quê nhà muôn đời của những mặc cảm lưu lạc. "Tôi có một thiên đường đã mất, phía bên ngoài cửa sổ, bên kia những hàng cây và những mái nhà...", thiên đường ấy ai mà không mang theo bên mình trong suốt cuộc hành trình. Trong cuộc hành trình quay quắt tìm về nơi cũ, người dẫn đường cho chúng ta, Hoàng Phủ Ngọc Tường, vừa như một kẻ mơ hoa mà lạc lối lại cứ luôn luôn nhắc nhở chúng ta về sự chóng qua, vô thường để rồi neo lại vào lòng người bằng sợi tơ mỏng mảnh của cái đẹp quá khứ. Ngòi bút của nhà văn đẫm đầy một chất thơ, chất trữ tình sâu lắng làm cho bài bút ký như trở thành một essay (tiểu luận) với những trang văn sâu sắc triết luận, miêu tả nghệ thuật tinh thế, một lượng tri thức, liên tưởng và những kiến văn phong phú. Thiết tưởng, nếu không phải ở một "người yêu nước Hoàng Phủ Ngọc Tường" như Nguyễn Tuân từng gọi, không ở một cuộc đời đi qua cuộc chiến dữ dội, ắp đầy kỷ niệm thì không thể và không có những sự thụ cảm tinh thế và sâu sắc đó. Theo con mắt thẫm đời của tác giả, ta lang thang qua những mùa xuân thay áo trên cây và xứ Huế, những mùa trái chín thuở cuối hạ với cây lá tơi và cô gái Huế "đẹp như thiếu nữ trong tranh Modigliari",... Từ đó, ta sống trong cảm xúc thực qua một cái tôi xuất hiện mạnh dạn và bắt mạch vào tận sâu của đời sống. Qua các cảm xúc run rẩy, xao động của cái Tôi trữ tình đó, ta nhận ra những mạch nhịp dù trầm lắng hay mạnh mẽ của đời sống được thu nhận qua một quảng lùi dài bằng thời gian và ký ức. Mạch nhịp ấy, chính là phong cách ký của Hoàng Phủ Ngọc Tường, là nhịp mạnh của nhà văn, là con đường "tố ti (tơ trắng) để đi suốt cuộc đời không ân hận, nói kiểu của Dịch. Hành trang của Hoàng Phủ Ngọc Tường nặng một chữ Hoài. Một chữ Hoài là đủ để Hoàng Phủ Ngọc Tường có một chữ ký gọi là "Tôi đã ghé qua đây". Chữ Hoài thấm đẫm trên từng trang "Ngọn núi ảo ảnh". Tôi gọi đó là không gian Hoàng Phủ Ngọc Tường. L.V.T (136/06-00) -------------------------------------------- (*) Tất cả những in nghiêng trong bài đều rút từ "Ngọn núi ảo ảnh"- |
NGUYỄN PHÚC VĨNH BATrong cuốn “Hồ sơ văn hoá Mỹ”, nhà nghiên cứu Hữu Ngọc có giới thiệu một số nhà thơ cổ điển Mỹ như Walt Whitman, Edgar A. Poe, Henri W. Longfellow… Về Longfellow, ông Hữu Ngọc viết:“Nếu không đòi hỏi tâm lí và tư duy sâu sắc thì có thể tìm ở thơ Longfellow sự trong sáng, giản dị, cảm xúc nhẹ nhàng, bâng khuâng, hình ảnh duyên dáng và âm điệu du dương. Ông làm thơ về lịch sử và truyền thuyết, đất nước và thiên nhiên, ông ca ngợi tình thương, lòng tốt, chịu đựng cuộc đời.
LÊ HUỲNH LÂMTừ “Vọng sông quê” đến “Mang” của Nhà xuất bản Trẻ, rồi “Gửi thiên thần” của Nhà xuất bản CAND và bây giờ là “Đồng hồ một kim” của Nhà xuất bản Văn Học” được gửi đến bạn đọc, Phan Trung Thành đã khẳng định được gương mặt thơ của thế hệ 7.X. Ở đây, số lượng tác phẩm không định hình nên một gương mặt thơ, mà chính những câu chữ đã vẽ lên chân dung một nhà thơ.
TIỂU VĂNGiữa tháng 11 năm 2008, tôi được dự một buổi hội thảo nói chuyện chuyên đề về sách tại Zen Café (phố Ngọc Hà). Đây là buổi nói chuyện của tác giả - dịch giả Lê Thị Hiệu, với bút danh thường gọi là Hiệu Constant, giới thiệu về tác phẩm đầu tay của chị - tiểu thuyết Côn trùng. Buổi nói chuyện nằm trong chương trình “Tôn vinh Văn hóa Đọc” do Công ty Truyền thông Hà Thế khởi xướng và tổ chức.
HÀ KHÁNH LINHHồng Nhu truyện ngắn, Hồng Nhu thơ… Lần đầu tiên nhìn thấy Hồng Nhu xuất hiện tiểu thuyết tôi thực lòng rất mừng. Tuy nhiên đọc gần hết hai chương đầu nỗi lo cứ cồm cộm lên trong tâm thức nhưng chính gần cuối chương II cái chất tiểu thuyết mới bắt đầu hé lộ ra, để rồi từ đó lôi cuốn người đọc cho đến hết truyện.
LÊ QUANG TƯCông trình Văn học Việt Nam thế kỷ X-XIX (những vấn đề lý luận và lịch sử)(1) được biên soạn bởi Trần Ngọc Vương (chủ biên), Trần Nho Thìn, Nguyễn Văn Thịnh, Trần Nghĩa, Đoàn Lê Giang, Kiều Thu Hoạch, Cao Tự Thanh..., do nhà xuất bản Giáo dục in năm 2007, dày 912 trang.
LÝ HOÀI XUÂN(Nhân đọc tập thơ “Mẹ!” của Văn Lợi – NXB Thuận Hoá, 2006)
TRẦN HUYỀN SÂMNhư con thú hoang ôm vết thương lòng đi tìm nơi trú ẩn, gương mặt người thiếu phụ mang nỗi buồn tiền kiếp - tự ngàn xưa: Người thiếu phụ có đôi mắt buồnĐi lang thang trong chiều mùa hạNỗi cô đơn lây sang cả đá...
MAI VĂN HOANNgười đời thì lập ngôn còn Nhụy Nguyên thì “lập thiền”. Thú thực tôi chưa hiểu hết dụng ý của Nhụy Nguyên khi đặt tên cho tập thơ đầu tay của mình là Lập thiền. Bản thân từ Hán Việt vốn ẩn chứa nhiều tầng nghĩa.
BỬU NAMI. Văn học Mêhicô ở thế kỷ XX, có lẽ được xem như một nền văn học năng động và sáng tạo nhất Châu Mỹ La tinh. Táo bạo trong những tìm tòi mới, linh hoạt uyển chuyển trong cách diễn tả, đa dạng phong phú trong cách sử dụng các cấp độ ngôn ngữ, sáng suốt trong cách chọn lựa đề tài, hình thức, ngôn ngữ: tiểu thuyết và truyện ngắn ở Mêhicô tạo được những không gian sáng tạo và đổi mới một cách tự do.
NGUYỄN TÝ51 bài thơ cùng 8 ca khúc được phổ thơ của Trần Hữu Lục vỏn vẹn 120 trang qua tập thơ “Vạn Xuân” (*) mới nhất của anh, người đọc đồng cảm cùng tác giả- một người con xứ Huế tha phương.
NGÔ MINHNhà xuất bản Văn nghệ vừa ấn hành tập ký “Phùng Quán- Ba phút sự thật”, tập hợp mười lăm bài viết, ký thấm đẫm chất nhân văn rất của cố nhà thơ nổi tiếng Phùng Quán.
NGUYỄN ĐÔNG HIẾUTrong cuộc đời làm xuất bản của mình, Phùng Quán là một nhà văn đã để lại cho tôi những ấn tượng mạnh mẽ, sâu sắc, khó quên.
PHẠM PHÚ PHONG Tập nhật ký Tây tiến viễn chinh (do Đặng Vương Hưng biên soạn và giới thiệu, Phạm Tiến Duật viết lời bạt, Nxb Hội Nhà văn, 2005) của liệt sĩ Trần Duy Chiến, bắt đầu viết từ ngày 7.10.1978, khi anh mới nhập ngũ, đến ngày 25.6.1980, trước khi anh hy sinh gần một tháng.
BỬU NAM giới thiệu1. Cuốn tiểu thuyết best - seller “Hồi ức của một Geisha” của nhà văn Arthur Golden vừa được dựng thành phim. Nhà văn Arthur Golden đã dành cả 40 năm cuộc đời mình tìm tư liệu về cuộc sống của những nàng Geisha ở Nhật Bản, để sáng tạo nên một cuốn tiểu thuyết Best - Seller giữ vị trí được bạn đọc thế giới yêu thích lâu dài trên danh mục những tiểu thuyết bán chạy nhất do báo New York Times bình chọn.
HOÀNG VŨ THUẬT(Đọc tập thơ Lệ Thuỷ mút mùa của Ngô Minh)Nói đến Ngô Minh là nói đến thế - giới - cát. Cát trong suy nghĩ của Ngô Minh như thứ ngôn ngữ minh triết về đời sống con người. Là vật chất, nhưng không giản đơn như mọi thứ vật chất. Cát có thể nóng như lửa, lại mềm mại dịu êm dưới chân người. Li ti từng hạt nhỏ, vậy mà bên nhau cát xây nên luỹ nên thành án ngữ dọc biển bờ Tổ quốc. Cát hiền lành trong sạch, khi giận giữ có thể biến thành những cơn bão khủng khiếp.
BÙI ĐỨC VINH(Nhân đọc tập thơ “RỖNG NGỰC” của Phan Huyền Thư, NXB Văn học 2005)
PHAN THUẬN AN"Khóc Bằng phi" hay "Khóc Thị Bằng" là một bài thơ nổi tiếng xưa nay, nhưng tác giả của nó là ai thì chưa được xác minh một cách cụ thể. Người ta thường cho rằng bài thơ trữ tình này là do vua Tự Đức (1848-1883) làm ra để thương tiếc một bà cung phi tên là Thị Bằng còn rất trẻ đẹp nhưng chết sớm.
HÀ VĂN LƯỠNGTrong văn học Nga thế kỷ XX, Aleksandr Solzhenitsyn là một trong những nhà văn lớn, nổi tiếng có nhiều đóng góp cho nền văn học Nga trên nhiều phương diện, một người suốt đời tận tụy và kiên trì đấu tranh cho sự chiến thắng của nghệ thuật, của sự thật đối với những cái xấu, cái ác. Nhưng ông cũng là một nhà văn có cuộc đời đầy thăng trầm, bất hạnh và phức tạp.
BÙI LINH CHIAnnemarie Selinko (1914-1986) là một nhà báo, nhà tiểu thuyết gặt hái được một số thành công trong sự nghiệp tại Tổ quốc của mình là nước Áo. Trong những tháng ngày chạy nạn 1943, bà đã cùng chồng đến Thụy Điển, đã chứng kiến những làn sóng người tị nạn phải rời bỏ quê hương trước ý chí ghê gớm của kẻ độc tài khát máu Himler gây ra.
TRẦN HUYỀN SÂM1. Nobel là một giải thưởng danh giá nhất, nhưng cũng chứa đựng nhiều nghịch lý nhất trong tất cả các giải thưởng. Riêng giải Nobel văn học, bao giờ cũng gây tranh cãi thú vị. Bởi vì, Hội đồng Viện Hàn Lâm Thụy Điển phải trung thành với lời di chúc của Alffred Nobel: trao tặng giải thưởng cho người sáng tạo ra tác phẩm văn học xuất sắc nhất, có khả năng định hướng lý tưởng cho nhân loại.