Trò chuyện với Hiền Lương

10:08 12/05/2010
TRẦN HOÀI... Chiều nay ra đứng trông về, bên ven bờ Hiền Lương mây lặng lờ trôi... Phải, đến bây giờ, sau hơn 40 năm kể từ ngày nhạc sỹ Hoàng Hiệp ôm cây đàn mãng- đô- lin hát bài hát đầu tay của mình mới sáng tác "Câu hò bên bến Hiền Lương" nổi tiếng, mây vẫn lặng lờ trôi.

Kỳ đài phía Bắc cầu Hiền Lương trong ngày hội Thống nhất non sông

Những áng mây tinh khôi phiêu bồng như những bóng thuyền trôi bất tận giữa bầu trời tháng tư, tôi thấy lòng mình nôn nao hoài niệm. Nỗi hoài niệm bé con của tôi ấy chắc cũng chỉ là một nét trầm tư của người lính nơi tượng đài “Người lính giữ cầu Hiền Lương” hôm nay. Chỗ ấy, ngày xưa là nền móng cũ của “Nhà liên hợp” được xây dựng trong mong muốn thống nhất hai miền Nam- Bắc theo tinh thần Hiệp nghị Giơ Ne Vơ 1954. “Nhà liên hợp” không được dùng đến vì âm mưu chia cắt đôi bờ vĩnh viễn của Mỹ, Diệm, thế là người Việt Nam đành phải làm cuộc kháng chiến trường kỳ suốt 21 năm (1954- 1975) thống nhất Tổ quốc.

Tôi lớn lên khi cuộc chiến tranh tàn khóc ấy đang vào hồi kết thúc. Người Việt đã qua sông, trong một đêm không trăng năm 1973, trên chiếc cầu phao bộ đội công binh bắc tạm. Bấy giờ, hiệp định Pa- ri đã có hiệu lực, giới tuyến quân sự được dời chuyển vào sông Thạch Hãn, cách Hiền Lương 35 km ngăn cách một bên là Chính phủ cách mạng miền Nam, một bên là chế độ Sài Gòn. Dĩ nhiên, khi ấy tôi vẫn là một công dân bé nhỏ của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Người qua sông nhiều quá, tôi mở to đôi mắt bé con nhìn qua vai áo mẹ tôi đang bế mà ngắm nhìn những đoàn người, đoàn xe màu xanh lá cây, những khẩu pháo nòng dài nườm nượp qua sông. Khi đó, tôi chẳng hiều gì đâu nhưng kỷ niệm đã khắc vào trí nhớ ngây thơ của tôi. Tôi cũng không thể ngờ rằng những chiếc trụ cầu bê tông giữa lòng sông còn sót lại ấy từng nâng đỡ một chiếc cầu sắt Be- lây giản dị, trên cầu có 894 miếng ván, giữa cầu có một vạch sơn trắng rộng 1 cm. Vạch sơn ấy, hiểu theo một nghĩa hình ảnh, chính là vĩ tuyến 17 chạy qua! Hơn hai mươi năm để người Việt vượt qua một dòng sông nhỏ gầy, chỗ rộng nhất chưa đầy 200m, hay bước qua cái vạch sơn trắng oan nghiệt này?...

Trong những ngày xuống đường tranh đấu đòi thống nhất hai miền của học sinh, sinh viên Huế, nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường có lần cùng bạn hữu đã bơi ra giữa dòng Hiền Lương, ôm lấy trụ cầu, uống một ngụm nước rồi hét to: “ Hòa bình cho Việt Nam! Hòa bình cho Việt Nam!”. Rồi sau đó Hoàng trở về Huế, nhảy rừng làm kháng chiến... Cùng thời đó, bên bờ Bắc có ông nhà văn Nguyễn Tuân lặn lội từ núi rừng Tây Bắc, mỏ than Quỳnh Nhai về Hà Nội rồi tuốt vào Vĩnh Linh. Nhấm một hạt tiêu cay nồng, Nguyễn đi khắp “ khu phi quân sự” gặp những bà mạ, những o những eng, những đồng chí bộ đội giới tuyến mà hỏi chuyện ghi chép, rồi sau đó Nguyễn đã cống hiến cuộc sống những trang văn chất đầy nỗi hờn căm ngùn ngụt vào cái thằng Mỹ thằng Diệm đang tâm chia cắt đôi bờ, xót xa lắm lắm cho cây cầu Hiền Lương tội tình chi mà nỏ có bóng người qua lại”.

Cầu Hiền Lương đêm hội Bài ca Thống nhất


Tôi kể với dòng Hiền Lương của tôi câu chuyện này, vì những bậc ký tài ba Hoàng, Nguyễn từng kể về sông rất nhiều, đã gây vô vàn là rung động trong muôn người... Còn với sông, có khi sông nỏ nhớ mô! Nhìn sông vô tâm thế kia, lấp lánh bàng bạc trong những đêm trăng muối... Đấy là thứ ánh trăng đẫm hơi muối từ biển Cửa Tùng phả lên, trộn lẫn vào đám sương mơ, dịu dịu trên gương mặt sông. Còn có thứ “muối hoa” (chữ của Nguyễn Tuân) trên những cánh đồng muối Di Loan xưa nữa, vẫn còn báng lảng trên khu phi quân sự xưa không tan đi, không tan... Đồng muối Di Loan chừ chỉ còn trong nỗi nhớ, nhưng còn cái ánh muối hoa rực lên dưới nắng, cái hơi hoa muối còn bảng lảng trong đêm sâu thấm lên đầu lưỡi, thì e đấy chính là vị máu! Đồng muối Di Loan sát ngay cạnh bến đò “B”. Bến đò “B” xưa là nơi tiễn người Việt lặng lẽ bí mật qua sông vào Nam chiến đấu. Người đi không trở lại. Người thì qua. Có người không qua nổi một lần đò mà hi sinh ở bến sông. Nhiều lắm! Dân làng Di Loan cặm cụi lấy nước sông Hiền Lương nước biển Cửa Tùng mà làm muối. Nước đã thấm máu rồi làm sao gạn được, thế là cái chất máu của bao người trai trẻ đã theo vào hạt muối trắng trinh trong... Đến chừ, đồng muối Di Loan đã bị chiến tranh tàn phá không còn, nhưng những tính chất đặc biệt của loài muối hoa Di Loan đó thì vẫn còn, vẫn vương vất trong không gian “khu phi quân sự” khi xưa. Tôi nhớ đến Long, người bạn của tôi đã hi sinh ngoài biển Trường Sa năm 1989, sau khi Long hi snh, mỗi lần tôi ra biển, bỗng dưng lại nhớ đến Long, thấy nước biển xanh mà nghi ngờ, không thật lắm vì dù rằng đi nữa thì Biển Đông cũng đã thấm thêm giọt máu Long rồi... Long, chính là trai làng Di Loan đó...

Thế mà dòng sông Hiền Lương dòng sông hiền lành, dòng sông đỏ. Ở đảo Cồn Cỏ vào ngay trời trong, buổi chiều ngắm vô bờ Cửa Tùng, thấy sông nhuốm màu hoàng hôn đỏ thắm, rồi nghĩ rằng nếu con thuyền nào ra biển vào lúc ấy, hẳn sẽ được tắm một màu đỏ ý nghĩa. Chỉ là một vết đỏ mảnh mai nơi đường chân trời nhưng đã cho tôi hình dung rằng trong bao thế kỷ, hôm nay và mai sau cái vết đỏ ấy sẽ mãi mãi tồn vinh không tan đươc, cùng với cái hơi “hoa muối” đồng Di Loan, không tan được, cùng với những giọt nước mắt khổ đau của người hai bên bờ Hiền Lương. Hai bên bờ Hiền Lương là đất đai nước Việt Nam. Hai bên bờ Hiền Lương có bà mẹ đêm đêm trong căn hầm kèo tăm tối, bên ánh sáng mờ đỏ quạch chiếc đèn dầu hỏa, mẹ ngồi vá cờ Tổ quốc. Còn nơi nào trên trái đất này có Bà Mẹ vĩ đại như thế không? Lá cờ Tổ quốc rộng 108 mét vuông, nặng lắm. Sức mẹ thì đã già, tay mẹ đã run... thế mà đêm đêm mẹ cứ miệt mài từng mũi kim chỉ chăm chút cho Tổ quốc vẫn nguyên lành trên đỉnh cột cờ cao 34, 5 mét, nơi đầu cầu giới tuyến, cho đồng bào bên nớ mỗi sớm ra sông gánh nước nhìn sang thì thấy miền Bắc gần lắm, cụ Hồ gần lắm và cái ngày thống nhất là không thể khác, không thể không đến! Để cho bọn địch thấy rằng là bom đạn của chúng không thể nào hủy diệt nổi... Tên mẹ là Nguyễn Thị Diệm ở thôn Hiền Lương, xã Vĩnh Thành. Mẹ giờ đã không còn... Năm 1992, sức lực cạn kiệt, mẹ dặn con cháu: “Tao chết, bây cho tau nằm ngoài Cồn, chỗ nớ trống trải... Khi mô Nhà nước xây lại cột cờ Hiền Lương, tau nhìn...” Mẹ Diệm đã được con cháu đặt nằm ngoài Cồn, đúng như ý nguyện của mẹ, nhưng còn cột cờ, lá cờ to hơn trăm mét vuông thì xin mẹ lượng thứ, xin mẹ chờ thêm một thời gian nữa dù là đã quá muộn màng... Khi mô xây xong cụm di tích, tượng đài cầu Hiền Lương, mẹ sẽ thỏa lòng mà ngắm lá cờ to đúng bằng lá cờ ngày xưa của mẹ... Bóng cờ đỏ thắm sẽ trải đến nơi mẹ nằm, bóng cờ sẽ in xuống dòng Hiền Lương. Mẹ hãy tin là như thế, bởi vì đó cũng là một ý nguyện của Nhân Dân, mẹ nờ...

Tháng tư này là đã tròn 25 năm Tổ quốc toàn vẹn thống nhất từ Bắc chí Nam. Xe qua cầu Hiền Lương mới hôm nay chỉ mất cỡ chục giây đồng hồ, phóng thẳng không cần giảm tốc độ. Cầu Hiền Lương mới này khánh thành vào tháng tư năm ngoái (1999), là chiếc cầu hiện đại, thi công bằng công nghệ đúc đẩy, mặt cầu rộng thênh thang, phẳng lỳ. Ban đêm đèn cao áp sáng bừng một khúc sông. Tôi được biết rằng trong số thợ cầu có những người từng đi B, vượt qua sông Hiền Lương ở một quãng sông nơi thượng nguồn, hạ nguồn trong những đêm chiến tranh. Thật tiếc là đã không gặp được họ để hỏi han, trò chuyện rồi cùng ngắem chiếc cầu Hiền Lương màu trắng đang vươn qua dòng sông như một cánh tay người Việt. Nó là chiếc cầu thứ tư, giờ bên nó là im lìm chiếc cầu đời thứ 3 xây từ năm 1974, hiệp định Pa- ri. Hai chiếc cầu cùng trên một khúc sông, chỉ cách nhau vài mét, chụm đầu với nhau phía bờ Bắc. Bộ Giao thông vận tải đề nghị Chính phủ cho tháo dỡ chiếc cầu cũ vì nó sẽ làm vướng dòng chảy, ảnh hưởng đến chân cầu mới nhưng ý nguyện của nhân dân là nên giữ lại... Vì dù là chiếc cầu được xây dựng từ hòa bình, không phải là chiếc cầu Hiền Lương lịch sử do người Pháp xây dựng đầu tiên (năm 1950) nhưng nó cũng đã gắn bó với nhân dân hai miền bao nhiêu năm vất vả, khó nhọc vừa qua, bao nhiêu người Việt đã đi qua cầu này? Chừ tháo dỡ nó rồi mang về dựng cho một vùng quê còn cách sông trở đò nào đó cũng rất là tốt thôi nhưng mà thấy buồn thương quá đỗi cho một đời cầu gian nan... Hay là cứ giữ lại, tìm cách khắc phục hiện tượng dòng chảy bị thu hẹp tiết diện, gây xói lở chân cầu mới, còn cầu cũ thì bảo quản, trùng tu trong cụm di tích lịch sử, tượng đài Cầu Hiền Lương tương lai. Để con cháu đời sau khi qua cầu mới bằng bê tông ứng lực thì quay nhìn mặt trời lên từ phía biển sẽ thấy chiếc cầu Hiền Lương bằng sắt thép gầy guộc, rồi mà hình dung, liên tưởng đến những khoảnh khắc lịch sử đã trọng đại diễn ra nơi đây, khúc sông, dòng sông này. Phải thế là hơn chăng...?

T.H
(138/08-00)



Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • NGÔ MINH Kỷ niệm 50 năm Đường Hồ Chí Minh trên biển (23/10/1961 - 23/10/2011)

  • NGUYỄN QUANG HÀ Kỷ niệm 20 năm thành lập đặc khu Côn Đảo (8.1991 - 8.2011) Thế hệ chúng tôi, thời tuổi trẻ, ai mà chẳng thuộc bài hát ca ngợi chị Võ Thị Sáu: “Mùa hoa Lêkima nở, ở quê ta miền Đất Đỏ, thôn xóm vẫn nhắc tên người anh hùng đã chết cho đời sau...”.

  • NGÔ VĂN MINH Bảo vệ chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ là công việc quan trọng nhất của mỗi quốc gia. Triều Nguyễn sau khi đã mở mang, hợp nhất địa giới hành chính trong toàn lãnh thổ đã có những quy định về việc bảo vệ chủ quyền, tránh các thế lực bên ngoài dòm ngó, trong đó đặc biệt chú trọng đến việc bảo vệ chủ quyền đường biên giới và đường biển.

  • LÊ THỊ BÍCH HỒNG Ghi chép Đến hẹn lại lên cứ đến ngày 27/3 (âm lịch) hàng năm, mảnh đất Mèo Vạc - nơi “phên dậu” của Tổ quốc lại rạo rực không khí đón Lễ hội chợ tình Khâu Vai - phiên chợ tình nổi tiếng có một không hai ở nước ta, thậm chí còn độc đáo và hiếm có trên thế giới, mà từ lâu đã trở thành huyền thoại.

  • NGUYỄN MINH CHÂU Trong đời viết văn của tôi, các tác phẩm chính về truyện ngắn và tiểu thuyết đều viết về vùng đất Bình Trị Thiên.

  • NGUYỄN HOÀNG YẾNChiếc xe khách chạy chậm dần. Âm giọng đặt sệt miền Nam của gã phụ xe chợt vang lên “Đến ngã ba MaDaGui rồi… có ai xuống không” Kiểu nói oang oang của gã kèm với tiếng thắng xe rít nhè nhẹ đánh thức tôi ra khỏi vùng ký ức mơ hồ vừa nồng nàn ấm áp vừa gian khổ chua cay.

  • XUÂN ĐỨCLàng tôi cách thị trấn Hồ Xá không xa, người lớn đi bộ gần một giờ, còn trẻ con thì đủ sức níu lấy gióng mẹ mà chạy lon ton từ nhà lên chợ huyện.

  • KÊ SỬUGiá trị văn hóa phi vật thể là sản phẩm tinh thần có giá trị lịch sử - văn hóa, khoa học, thẩm mỹ được lưu truyền bằng miệng, truyền nghề trình diễn và các hình thức lưu giữ khác.

  • NGÔ THIÊN THUPhước Yên một thời là thủ phủ của chúa Nguyễn Phúc Nguyên, con thứ sáu của Nguyễn Hoàng. Sau khi lên ngôi chúa ông cải tổ lại mọi công việc và được dân gọi là chúa Sãi. Sau khi Nguyễn Hoàng mất vào năm 1613, theo lời di huấn, ông ra sức củng cố sức mạnh cho mình bằng cách hoàn thiện bộ máy hành chính và quân sự... Năm 1626 ông dời phủ từ Dinh Cát vào đất Phước Yên để lập phủ mới. Mục đích chính cho việc chuyển phủ vào đây là để chuẩn bị thực lực chống quân Trịnh lâu dài.

  • NGUYỄN THAM THIỆN KẾDo xê dịch ngẫu nhiên của số phận, tuổi thơ tôi lớn lên ở mường Cự Thắng, châu Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ.

  • VI THÙY LINHÔ tô xanh chạy triền đê thở cùng những đợt hôn ngạt thở. Không phải Hollywood mà hơn cả Hollywood, khi mỗi nhịp vô - lăng là một scène cuồng say nơi miền không chạm đất nơi miền không lên trời. Sông Thao đang chảy trong tình yêu của tôi.

  • HỒ ĐĂNG THANH NGỌC(Kỷ niệm 60 năm thành lập Hội Liên Hiệp Văn học Nghệ thuật Thừa Thiên Huế)Dọc một thời trai trẻ của những năm chín mươi, khi ấy đất nước bắt đầu đổi mới, tôi đi gần như khắp các làng quê xứ Huế từ biển khơi, đầm phá đến thẳm sâu rừng núi đại ngàn.

  • KÊ SỬU1. Đặc điểm đời sống của dân tộc Ta ôi

  • HIỀN QUANGCâu chuyện của tôi về vùng núi ven đường số 9, ngay trên thung lũng Khe Sanh lịch sử này chỉ xoay quanh con cá và cây cà phê trong hướng đi lên của hợp tác xã Tân Độ.

  • NGUYỄN VĂN VINHCuối năm 1953, Pháp thực hiện kế hoạch Na-Va, chúng tổ chức nhiều cuộc càn quét có quy mô đánh sâu vào vùng hậu cứ nước ta. Quân dân ta đánh trả quyết liệt. Pháp thua to, dẫn đến ngày 7 tháng 5 năm 1954, toàn bộ tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, vị trí chiến lược quan trọng vào bậc nhất của giặc Pháp bị tiêu diệt.

  • HÀ LẬP NHÂNLần đầu tiên người Việt phát hiện ra những điều sâu kín nhất trong chính tâm hồn mình. Đó là tích truyện An Dương Vương quay lại chém chết con gái Mỵ Châu yêu quí của Người sau khi kinh đô Cổ Loa thất thủ. Vì vậy cho dù bản thân An Dương Vương không phải là một nhà tư tưởng, nhưng tích truyện về ông thì lại có một tầm tư tưởng thật sâu sắc.

  • NGUYỄN HỮU SƠN1. Trong trường kỳ lịch sử Việt Nam, danh nhân thiền sư Từ Đạo Hạnh (?- 1117) là một trong những hiện tượng văn hóa chứa đựng nhiều điều nghịch lý:

  • PHONG LÊTrên các chuyến tàu xuyên Việt, từ Hà Nội vào thành phố Hồ Chí Minh tôi thường xiết bao bồi hồi khi qua mảnh đất miền Trung quê tôi - xứ nghèo Nghệ Tĩnh, khô khát nắng hạn và gió Lào.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊGọi là “một ngày”, nhưng có nhiều cách tính. Thông thường, đó là quãng thời gian từ sáng đến tối; với các công chức thì chỉ gọn trong “8 giờ vàng ngọc”.

  • NGUYỄN HỮU NHÀN                     Ghi chép Ngày nay đồng bào cả nước nô nức về Phú Thọ để tưởng niệm Vua Hùng. Theo sử sách cổ của Trung Hoa thì ông Vua Hùng chính là người Lạc Việt có nhiều pháp thuật, quyền năng phục được các bộ lạc, làm thủ lĩnh mà xưng là Hùng Vương (1).