Trần Duy Phiên - trăm năm còn lại chút này…

08:35 24/09/2012

TRẦN HỮU LỤC

Những trang văn đầu tiên của Trần Duy Phiên phản ánh cách nghĩ, cách sống và cách chọn lựa của một thanh niên trước thời cuộc và đất nước. Khi đang còn theo học tại trường đại học Sư phạm và đại học Văn khoa Huế, Trần Duy Phiên đã là một cây bút trẻ và còn là một sinh viên năng động.

Nhà văn Trần Duy Phiên - Ảnh: internet

Là một trong những người tích cực, anh cùng Trần Đình Vỹ hình thành đặc san Hướng Đi (1963), chủ trương đặc san Đỉnh Triều (1965), thành lập một vài tổ chức văn nghệ tiến bộ thời đó như hội Hồng Sơn, phòng Sinh hoạt Văn học - Nghệ thuật đại học Sư phạm Huế. Cuối năm 1966, hội Hồng Sơn có dự định xuất bản một nguyệt san văn học lấy tên là Việt và chọn Trần Duy Phiên làm chủ nhiệm kiêm chủ bút (đã lập hồ sơ xin nhưng chờ mãi không thấy chính quyền thời đó cấp phép).

Tháng 9 năm 1967, tốt nghiệp Trần Duy Phiên đi dạy học ở Kontum. Tháng 8 năm 1968, Trần Duy Phiên về Huế cùng với Tần Hoài Dạ Vũ hình thành tạp chí Việt, xuất bản dưới dạng bất hợp pháp (tòa soạn bí mật đặt ở lầu 3 thư viện đại học, in ronéo ở trường Mỹ Thuật). Qua đến năm 1969, do một số khó khăn khách quan, Việt dời vào Sài Gòn, ủy nhiệm Trần Hữu Lục phụ trách chung và Việt được Đối Diện - một tạp chí có uy tín hàng đầu lúc bấy giờ, giao đảm nhận toàn bộ phần văn học - nghệ thuật (cho đến năm 1975). Trong quãng thời gian ấy, Trần Duy Phiên là một trong số những cây bút chủ lực văn xuôi của Việt.

Một chặng đường biết bao gian nan và thử thách, Việt gần như là nhóm văn học nghệ thuật đối kháng duy nhất tồn tại lâu dài đến mười năm (1965 - 1975) giữa lòng đô thị miền Nam. Trần Duy Phiên đã định hình văn phong qua truyện dài Đốt lửa sau mây (đăng được bốn kỳ trên tạp chí Việt) và sau đó một số truyện ngắn trên tạp chí Đối Diện. Tôi viết văn cùng thời với Trần Duy Phiên và đã từng cùng nhau chia sẻ ngọt bùi của người cầm bút trong thời tao loạn. Đọc lại một số truyện ngắn của anh, tôi bắt gặp tuổi thơ và thời trai trẻ của mình. Anh viết về những em học trò khắc khoải trong ngôi trường miền núi đìu hiu, về tuổi thơ bị săn đuổi trên chính quê hương nhưng vẫn không nguôi hướng đến ngày mai (Nắng đẹp sân trường, Thư học trò…). Giai đoạn kế tiếp, truyện ngắn của Trần Duy Phiên là bản cáo trạng về băng hoại của xã hội, về thân phận nghèo hèn, về nỗi thất vọng, oán hờn và cả nỗi khát khao thầm lặng của những con người bị tước đoạt quyền sống trong các trại tạm cư và các khu rác ngoại thành (Tư Giò, Sáu Dền, Mặt đất quê ngoại…), nhưng vẫn còn nuôi hy vọng vào mai sau (Trốn, Chim tha lửa…). Trước năm 1975, Trần Duy Phiên đã có vài ba chục truyện ngắn đăng trên các tạp chí: Việt, Đối Diện, Trình Bầy, Ý Thức và đã được các báo Việt ngữ yêu nước in lại ở Canada, Nhật Bản.

Từ cuối năm 1971, tạp chí Đối Diện lần lượt ấn hành nhiều tác phẩm chọn lọc như: Cách một dòng sông (tập truyện - Trần Hữu Lục), Rừng dậy men mùa (thơ - Đông Trình), Trước khi mặt trời mọc (tập truyện - Trần Duy Phiên), Cho cây rừng còn xanh lá (bút ký - Nguyễn Ngọc Lan), Bọt biển và sóng mgầm (bút ký - Lý Chánh Trung)… Ngày đó, Trần Duy Phiên đã tạo ấn tượng với một văn phong sắc cạnh, mạnh mẽ và lôi cuốn. Trong bài tựa Tuyển tập truyện ngắn Việt (Nxb Trẻ -1997), tiến sĩ - nhà văn Huỳnh Như Phương có nhận xét: “Bên cạnh một Trần Hữu Lục trữ tình, Trần Duy Phiên là nhà văn có ngòi bút sắc cạnh và bạo liệt khi miêu tả cái ác và thể hiện sự thảm khốc của chiến tranh”. Tính cách ấy được rõ nét hơn qua Trước khi mặt trời mọc (Đối Diện xuất bản năm 1972, bìa của Đinh Cường), truyện có nội dung dữ dội và bút pháp lạnh lùng (Tư Giò và Sáu Dền). Nếu Chim tha lửa - một vẻ đẹp lãng mạn trong phong trào đấu tranh của đô thị miền Nam, thì cái kết cục tàn nhẫn của Qua đồng Văn Xá lại dội vào tim ta một nỗi đau tê điếng uất nghẹn”.

Sau năm 1975, Trần Duy Phiên nghỉ dạy học và nghỉ viết khoảng mười năm. Anh bươn chải qua nhiều nghề tạp nham để kiếm sống. Tới hồi khoảng 1984 - 1985, anh cầm bút trở lại và sáng tác khá sung sức. Những truyện ngắn của Trần Duy Phiên lần lượt xuất hiện trên các tạp chí: Thanh Niên, Sông Hương, Đất Quảng, Nha Trang, Gia Lai - Kon Tum, Cửa Việt, Thế Giới Sách, Non Nước, Nhớ Huế, TB, Văn Nghệ (Hội Nhà văn Việt Nam)… - Trong đó, một số được các tạp chí ở Pháp - Mỹ - Trung Quốc - Canada… đăng lại, một số truyện hay được tuyển chọn in chung trong nhiều tuyển tập: Tiếng hát những người đi tới (Nxb Trẻ-1993), Truyện ngắn Việt Nam chọn lọc (Nxb Văn Học - 1996), Tuyển tập truyện ngắn Việt, Nhìn lại một chặng đường văn học (Nxb Tp. Hồ Chí Minh - 2000), Tuyển tập xa xứ (Nxb Trẻ - 2001), Sông Hương - Văn (1983 - 2003 - Nxb Văn hóa Thông tin - 2003), và một số được chọn đọc trên các đài phát thanh Việt Nam, VOA.

Ngoài truyện dài Đốt lửa sau mây đã được in mấy kỳ trên tạp chí Việt (cho đến nay toàn tập vẫn chưa được xuất bản), Trần Duy Phiên đã lần lượt ấn hành năm tập truyện ngắn và một cuốn tiểu thuyết.

Qua hàng chục năm lặn lội nơi rừng sâu núi thẳm, Trần Duy Phiên có những cảm thức độc đáo về rừng và người bản địa. Anh đã hoàn thành cuốn tiểu thuyết thật dữ dội. Với Trăm năm còn lại, Trần Duy Phiên đã dẫn dắt người đọc vào tận cùng bên trong thế giới chứa đầy bạo liệt của rừng và tham vọng của con người bắt rừng làm nô lệ. Nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường trong bài tựa của cuốn tiểu thuyết này đã viết: “Tất cả cái thế giới nhỏ bé và khủng khiếp của Trăm năm còn lại được Trần Duy Phiên thuật lại bằng một giọng chuẩn với thi pháp tiểu thuyết, sắc bén, điềm tĩnh và nhiều khi đến tàn nhẫn, buộc người ta phải thức tỉnh. Những hoàn cảnh, tính cách, thủ đoạn và số phận của hơn chục nhân vật cứ đan cài, xô đẩy lẫn nhau, tạo nên một không gian dồn nén và bạo liệt mà tôi nghĩ chưa từng xẩy ra trong văn học của chúng ta viết về Rừng - Rừng như chính bản thân nó”.

Mỗi nhà văn có riêng một quê hương sáng tác. Với Trần Duy Phiên, anh có đến hai quê hương như thế. Trong các truyện của anh, dấu ấn của hai quê hương đó khá rõ nét và đã trở thành nền văn hóa của tác phẩm, đấy là Cố đô Huế và miền tây tam biên Kontum. Không thể nhầm vào đâu được, hàng loạt truyện của anh mang thần thái cố đô (Những mảnh vỡ của một vì sao chợt tắt, Ngược dòng phù hoa, Chim tha lửa, Pháo thủ thành Trấn Hải, Có ai dám mở mắt ra không? Ngàn năm bia miệng, Những số phận tình yêu di truyền, Con đường xa lạ trước mắt…). Ở đây thấp thoáng bóng dáng sông Hương, núi Ngự, cầu Trường Tiền, đường Lê Lợi và những tà áo trắng… Thì cũng không thể nhầm vào đâu được, hàng loạt truyện của anh mang dấu ấn đặc thù hoang dã (Trăm năm còn lại, Kiến và người, Của em, Mối và người, Nửa đêm về sáng, Bahnar, Ngõ đạo miền hoang dã, Anh hùng thảo dã…). Ở đây thấp thoáng dòng Dakbla, núi Chưhpao, lễ hội sắc tộc, sinh hoạt buôn làng và những váy khố thổ cẩm sắc nét hoa văn.

Tôi gọi hai nơi ấy - hai mặt đất ấy, hai không gian ấy, là hai quê hương của một con người Trần Duy Phiên. Và thật kỳ lạ, hai quê hương sáng tác dị biệt như mặt biển với đầu non lại ở chung một ngòi bút. Và thật lý thú, trong quê hương nào Trần Duy Phiên cũng chu đáo, chăm chút, chân thật, tỉnh táo, sắc sảo, tự nhiên, tươi tắn, ngộ nghĩnh, sống động và hóm hỉnh. Tất cả cho ta thấy một thực thể nhân sinh bao gồm nội lực thâm hậu và công phu khó nhọc của nhà văn đã đạt độ chín muồi của tuổi đời, tuổi nghề, tuổi phố và cả tuổi rừng.

Trần Duy Phiên là một người viết văn thành danh rất sớm, đã khổ luyện giữa phố phường và cả giữa chốn rừng xanh, đã đạt độ chín muồi trong sáng tác. Bây giờ đọc Ngõ đạo miền hoang dã, bắt gặp Ngựa doang, Charles David - Vua Sédang, Anh hùng thảo dã… tôi nghĩ vua Lửa, vua Nước ở Tây Nguyên chẳng còn ngai vị, vương quyền nhưng không ai muốn xóa bỏ. Trần Duy Phiên cũng thế, hơn bốn mươi năm sống ở Kontum, đến nay chức quyền không ngoài hai chữ thường dân nhưng người ta khó mà quên được anh.

Đó là thành quả của một Trần Duy Phiên mãi âm thầm, bền bỉ với chọn lựa của mình như thuở mới bắt đầu. Vẫn biết văn chương đang rớt giá, nhưng Trần Duy Phiên thật sự cảm thấy hạnh phúc mỗi khi hoàn tất một tác phẩm. Là bạn học, bạn văn và bạn đọc, tôi vẫn tham lam kỳ vọng ở Trần Duy Phiên nhiều hơn nữa, trong đó những gì bất hạnh đã viết đang còn trong bóng tối và những gì hy vọng sẽ viết đến hơi thở cuối cùng. Tham lam đòi hỏi nhưng tôi tin, vì chính anh trong cảm đề Trăm năm còn lại đã tâm nguyện: “Tôi và núi. Núi và mây. Mây và gió. Gió và cây. Trăm năm còn lại chút này. Rừng ơi!”.

T.H.L
(SH283/09-12)









 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • XUÂN CANG(Trích Chân dung nhà văn soi chiếu bằng Kinh Dịch)Nhà văn Nguyễn Sinh Tuân sinh ngày 10 - 7 - 1910 tức năm Canh Tuất (Nhà văn Việt Nam hiện đại. Nxb Hội Nhà văn - Hà Nội - 1997).

  • HOÀNG CẦM(cảm nhận qua tập thơ “Đồng dao cho người lớn” của Nguyễn Trọng Tạo)Hình như đã lâu lắm, hoặc như chưa bao giờ tôi bắt gặp trên đời này một người mà chỉ qua một buổi sơ ngộ tôi đã thấy quý và yêu... như anh ta.

  • NGUYỄN HỮU HỒNG MINHI.“Ta rồi chết giữa mùa màng”(*).

  • TRỊNH MINH HIẾU(Đọc Tiền định của nhà văn Đoàn Lê NXB Hội Nhà văn 2009)Tác phẩm “Tiền định” của nhà văn Đoàn Lê vừa được Công ty cổ phần sách Bách Việt đưa vào chung khảo Giải thưởng Bách Việt lần thứ nhất.

  • THANH TÙNGLarry Rottmann sinh ngày 20-12-1942 ở tiểu bang Missourri. Ông thường nói: tôi sinh khác năm nhưng cùng ngày với ngày thành lập Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam. Larry Rottmann hay để ý tìm kiến những điều mà cuộc đời ông gắn bó, liên quan đến Việt Nam.

  • MINH KHÔI…Hải Bằng là nhà thơ cách mạng tham gia hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. Ngày mới vào Việt Minh anh được phiên vào Trung đoàn 101 nổi tiếng vùng Trị Thiên, hành quân qua khắp các chiến khu Dương Hòa, Hòa Mỹ, Ba Lòng, Cam Lộ, Do Linh... Rồi anh sang chiến đấu tại mặt trận Lào, về Thanh Hóa… Trong lai cảo thơ của anh để lại còn có những trường ca chưa in như “Đoàn quân 325”, “Bài thơ rừng hoa Chăm pa”, “Lòng em theo tiếng khèn”…

  • NGÔ THỜI ĐÔNSống một đời không dài lắm và đón nhận quá nhiều nỗi phiền ưu vì đất nước, dân tộc, thời cuộc, gia tộc và bản thân song với lòng yêu đời, thương người sâu sắc, Miên Thẩm đã để lại một sự nghiệp trứ tác đồ sộ, không thua kém các đại gia trong văn chương trung đại của dân tộc.

  • NGUYỄN NHÃ TIÊNNgồi chung một chuyến xe trong một lần cổ ngoạn Mỹ Sơn, nhà thơ Hồng Nhu trao cho tôi tập thơ "RÊU ĐÁ", tập thơ thứ tư của anh do Nhà xuất bản Hội Nhà văn xuất bản năm 1998.

  • ĐỖ NGỌC YÊN(Nhân đọc TRONG CĂN NHÀ SÀN BÉ NHỎ)(*)

  • ĐỖ ĐỨC HIỂU Trong hành trình "Đi tìm Nguyễn Huy Thiệp", tôi thấy một giọt vàng rơi vào lòng mình, giọt vàng ròng ngời sáng. Đó là truyện ngắn của anh. Anh tái tạo truyện ngắn ở Việt Nam vào những năm cuối thế kỷ XX này và nâng nó lên một tầm cao mới: thơ ca và triết lý, nó truyền thống và hiện đại, phương Đông và toàn nhân loại.

  • THÁI DOÃN HIỂUĐể nối hai bờ suy tưởng tâm linh và vũ trụ, nhà toán học Lê Quốc Hán (*) đã bắc một chiếc cầu thơ.

  • HÀ VĂN THÙY(Nhân đọc Văn học - phê bình, nhận diện của Trần Mạnh Hảo)

  • LÊ VIẾT THỌ(Đọc "Ngọn núi ảo ảnh" - bút ký của Hoàng Phủ Ngọc Tường - NXB Thanh niên tháng 1-2000)

  • ĐỖ NGỌC YÊN Phế đô là một trong những cuốn tiểu thuyết đương đại của Trung Quốc,  do Tạp chí Tháng Mười xuất bản từ năm 1993. Ngay sau đó nó đã có số bản in đạt vào loại kỷ lục, trên 1. 000. 000 bản tiếng Trung Quốc.

  • VƯƠNG HỒNG HOAN

    "Trăng Thương Bạc" là tập thơ của 47 hội viên của câu lạc bộ Hương Ngự do Nhà xuất bản Thuận Hóa in kỷ niệm lần thứ 25 ngày giải phóng Huế.

  • NGUYỄN ĐĂNG MẠNHNguyễn Khải ở trong Nam, ít khi tôi được gặp. Tôi rất thích nói chuyện với anh. Đúng ra là tôi thích nghe anh nói.

  • PHẠM XUÂN HÙNG(Về cuốn Đọc văn - Tiểu luận - Phê bình của Phạm Phú Phong, NXB Thuận Hóa, 2008)

  • HÀ VĂN LƯỠNGChingiz Aitmatốp thuộc trong số các nhà văn lớn được độc giả nhiều nước trên thế giới biết đến. Tác phẩm của ông thể hiện những vấn đề đạo đức nhân sinh, nhân loại. Ngoài việc sử dụng các đặc điểm thời gian, không gian nghệ thuật, cấu trúc, giọng điệu tác phẩm... nhà văn còn đưa huyền thoại, truyền thuyết vào tác phẩm như là một thi pháp biểu hiện mang tính đặc trưng của ông.

  • TÔ NHUẬN VỸ(Nhân đọc một số bài tranh luận về cuốn THƠ ĐẾN TỪ ĐÂU)

  • NGUYỄN KHẮC PHÊBộ trường thiên tiểu thuyết “Sông Côn mùa lũ”(*) của nhà văn Nguyễn Mộng Giác, được bạn đọc chú ý trước hết vì bề dày 4 tập 2000 trang với nhân vật trung tâm là người anh hùng dân tộc Nguyễn Huệ; sau nữa, đây là tác phẩm văn học dày dặn nhất của một Việt kiều được xuất bản trong nước.