Tôn Nữ Thu Hồng - nữ thi sĩ Huế duy nhất có tên trong 'Thi nhân Việt Nam'

15:09 24/10/2011
KHÚC CẦM Thi nhân Việt Nam của Hoài Thanh - Hoài Chân xuất bản năm 1942 là cuốn sách khám phá và đánh giá đầu tiên đối với phong trào Thơ Mới.

Nhà thơ Thu Hồng - Ảnh: sachxua.net

[if gte mso 9]> Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 <![endif][if gte mso 9]> <![endif][if gte mso 10]> <![endif]

Việc lựa chọn tác giả và tác phẩm đương thời là một việc hết sức khó khăn, thế nhưng với cảm thụ sâu sắc, Hoài Thanh và Hoài Chân đã lựa chọn được những tác phẩm thơ hay nhất trong vườn hoa Thơ Mới để bày soạn cho người yêu thơ thưởng thức. Sự chọn lựa ấy được xác nhận là rất tinh tế, các tác phẩm được chọn ngay lập tức thuyết phục được công chúng bạn đọc cả nước lúc bấy giờ và nhiều thế hệ yêu thơ Việt Nam sau này nữa.

Trong số các nhà thơ được tuyển chọn vào tập Thi nhân Việt Nam, thi sĩ gốc Huế có bốn người được chọn: Phan Văn Dật (sinh 1909) ở làng Phú Xuân - Hương Trà, với ba bài thơ: Tiễn đưa, Bi xuân nương, Nàng con gái họ Dương; Mộng Huyền (sinh 1919) ở Huế với tác phẩm Vườn hoang; Nguyễn Đình Thư (sinh 1917) ở Phước Yên, Quảng Điền với các bài thơ: Đến chiều, Sang ngang, Tống biệt, Vương tình, Thiệt thà; Tôn Nữ Thu Hồng với ba bài: Tơ lòng với đẹp, Êm đềm, Mảnh hồn thơ.

Tôn Nữ Thu Hồng sinh ngày 19.7.1922, quê làng Thần Phù, huyện Hương Thủy, Thừa Thiên Huế. Bà thuộc dòng dõi Hoàng tộc nhà Nguyễn, trước học ở Tourane, sau vào học tại trường Đồng Khánh (Huế). Cuộc đời của nữ thi sĩ đúng là nghiệp dĩ chân mệnh tài hoa. Năm 18 tuổi (1940), bà cho xuất bản tập Sóng thơ. Tập thơ in đẹp (chưa rõ tên nhà xuất bản), có tựa của Đạm Phương nữ sĩ, và tranh vẽ bìa của nữ họa sĩ Mộng Hoa. Năm 1941, bà và thơ của bà được Hoài Thanh -Hoài Chân giới thiệu trong Thi nhân Việt Nam. Năm 1968, bà lại được Nguyễn Tấn Long - Nguyễn Hữu Trọng giới thiệu trong bộ sách Việt Nam thi nhân tiền chiến (quyển trung), xuất bản tại Sài Gòn. Cuốn sách cũng cho biết la nữ sĩ Tôn Nữ Thu Hồng đã chết trong một trường hợp bi đát vào năm 1948, khi mới 26 tuổi (theo Wikipedia).

Trong Thi nhân Việt Nam, Hoài Thanh và Hoài Chân đã viết về nữ thi sĩ Tôn Nữ Thu Hồng như sau:

Người ta vẫn nói giọng Huế phải nghe từ miệng con gái Huế mới có duyên. Lần thứ nhất trên thi đàn ta được nghe giọng một người con gái Huế, mà lại là người trong Hoàng tộc: Tôn Nữ Thu Hồng.

Giá Thu Hồng chịu làm những câu trơn tru mà trống rỗng, chắc chẳng khó gì. Ai mà không làm được những câu trơn tru, trống rỗng? Nhưng người có cái ý muốn rất đáng quý là diễn đúng hình dáng riêng của hồn mình. Có phải vì thế mà giọng nói của người có vẻ ngọng ngịu rất ít có trong thơ ta. Ngọng ngịu khi ôn lại quãng đời thơ ấu đã đành; ngọng ngịu cả khi ca ngợi cảnh trời:


Cảnh đẹp cứ dàn thêm bước bước
Lời ngợi khen mỗi phút lại thay thay


Và nữa:

Ở xứ này, nói đến những thiếu nữ làm thơ người ta thường mỉm cười. Hình như thơ là một cái gì to chuyện lắm. Thu Hồng đã tránh được cái mỉm cười mỉa mai ấy vì người rất bình dị, rất hồn nhiên, không lúc nào ra vẻ muốn làm to chuyện”.

Con gái Huế trước thời kỳ Thơ Mới làm thơ viết văn không nhiều lắm, chỉ có 5 người còn được sử sách nhắc đến. Triều Nguyễn khởi thủy cho văn học nữ có Bà Huyện Thanh Quan với những câu thơ hoài cảm: “Ngàn mai lác đác chim về tổ/ Dặm liễu bâng khuâng khách nhớ nhà” (Chiều hôm nhớ nhà). Bà từng sống ở Phú Xuân 8 năm, dạy các hoàng nữ trong cung, khi trở ra Bắc công chúa Mai Am có tiễn đưa bằng bài thơ “Tống Lưu Ái Lan thất Nguyễn Thị quy Hà Nội”. Tiếp đó có bà Nguyễn Nhược Thị Bích (1830 - 1909), từng dạy hoàng tử Ưng Thị sau là vua Đồng Khánh, và hoàng tử Ưng Đăng sau là vua Kiến Phúc. Sau vụ Thất thủ kinh đô, bà làm bài thơ lục bát nhan đề “Loan dư hạn thục ca” (Xe loan vào đất Thục) thuật lại chuyện vua Hàm Nghi chạy ra Tân Sở. Các nữ danh sĩ khác phải kể đến Nguyễn Phúc Vĩnh Trinh (sinh 1824), tự là Trọng Khanh, hiệu là Nguyệt Đình, hoàng nữ thứ mười tám của vua Minh Mạng. Khi chồng là phò mã Phạm Đăng Thuật còn sống, hai vợ chồng cùng nhau xướng họa thành tập thơ. Bà để lại một tập thơ là “Nguyệt đình thi thảo”, rất tiếc là chưa tìm thấy. Nguyễn Phúc Trinh Thận, tự là Thúc Khanh, hiệu là Mai Am (sinh 1826), có sáng tác tập “Diệu Liên thi tập”. Nguyễn Phúc Tĩnh Hòa (1830), tự là Quý Khanh, hiệu là Huệ Phố, để lại tập Huệ Phố Thi tập.

Đặc biệt về sau, có Nữ sử Đạm Phương. Là một nữ học giả suốt đời đấu tranh cho sự đổi mới giáo dục con người, giải phóng phụ nữ, chấn hưng đất nước.

Đến thời kỳ Thu Hồng làm thơ, là thời buổi cái mới thôi thúc: “Tình chúng ta đã đổi mới, thơ chúng ta cũng phải đổi mới vậy. Cái khát vọng cởi trói cho thi ca chỉ là cái khát vọng nói rõ những điều kín nhiệm - u uất, cái khát vọng được thành thật. Một nỗi khát vọng khẩn thiết đến đau đớn”... (Thi nhân Việt Nam)

Thời buổi ấy sự bảo thủ đang còn đè nặng, đến mức có người còn đòi chém cả Lưu Trọng Lư vì dám đổi mới thơ (!). Con gái Huế bấy giờ làm thơ cũng chưa nhiều lắm, vậy mà Thu Hồng làm thơ mới vượt lên tất cả, để đi vào Thi nhân Việt Nam thì thật đáng nể vì. Thậm chí, Thi nhân Việt Nam còn đánh giá Tôn Nữ Thu Hồng khá cao, xếp ngang hàng với nhiều anh tài khác: “Chung quanh đôi bạn Xuân Diệu - Huy Cận có...: Tế Hanh, Huyền Kiêu, Đinh Hùng, Phan Khắc Khoan, Thu Hồng, Nguyễn Đình Thư... Đôi nhà thơ như Lan Sơn, Thanh Tịnh, lúc nãy đã thấy một bên Thế Lữ, bây giờ lại kéo nhau về đây”.

Hơn nửa thế kỷ sau, các thế hệ học trò Huế còn thi nhau chép trong sổ tay những tư tưởng triết lý không bóng bẩy, nhưng rất dễ đi vào lòng người bởi cái chân chất hợp với tuổi học trò:

Hãy là hoa, xin hãy khoan là trái
Hoa nồng hương mà trái lắm khi chua


Chép vậy đó, rồi không biết là của ai, có kẻ nói của Xuân Diệu, có kẻ nói của Chế Lan Viên. Vậy mà thơ đó là của Tôn Nữ Thu Hồng.

Đó là dấu hiệu người đời sau ít biết đến nữ thi sĩ xứ Huế duy nhất có tên trong Thi nhân Việt Nam. Bởi vì sau đó, các công trình nghiên cứu rất ít nhắc đến tên hoặc có nhắc thì cũng không nói cho đầy đủ. Chỉ duy Việt Nam Thi nhân tiền chiến của Nguyễn Tấn Long - Nguyễn Hữu Trọng là còn lưu ý. Ngay cả trong Từ điển văn học do NXB Khoa học Xã hội - Hà Nội - xuất bản 1983, cũng không có tên của nữ nhà thơ tiên phong xứ Huế ngày ấy... Mãi đến năm 1994, NXB Lao động có ấn hành cuốn “Vầng trăng đêm ấy”, là tập thơ xướng họa giữa nữ sĩ Thu Hồng và thi sĩ Nguyễn Viết Thâm. Phần đầu có đoạn thi sĩ Viết Thâm kể về mối tình của ông với nữ sĩ Thu Hồng, có thủ bút của cả hai người.

Để nhớ lại thi ca của một người, thi ca của một thời, xin giới thiệu lại những bài thơ đã được Thi nhân Việt Nam Việt Nam thi nhân tiền chiến tuyển chọn. Điều dễ nhận thấy là sau những vần thơ trong sáng trong tập Sóng thơ, bài “Lịch” (in trong Việt Nam Thi nhân Tiền chiến cho thấy nữ sĩ đã bắt đầu nhận thức được nỗi buồn hữu hạn của phận người, dẫu lúc ấy bà chỉ mới chỉ ngoài 20 tuổi.



Êm đềm


Hồi tưởng nhiều mai, dưới ánh dương,
Em vừa tỉnh giấc, dậy bên giường,
Mẹ em đôi mắt đầy âu yếm
Vây bọc chim khua, rộn giấc hường.

Vạn buổi êm trời, dịu mát hương,
Chưa bằng đôi mắt chứa yêu đương!
Mẹ hiền tựa cửa khi chờ ngóng,
Em thấy lòng vui lướt dặm đường.

Cũng có nhiều đêm gió rít vang,
Mẹ em ốm nặng thức trong màn,
Em ngồi mơ sách người xưa ước,
Nếu có thì em cũng ước tràn.

Nếu có thì em: ước mẹ lành,
Cha cho nhiều bánh với nhiều tranh,
Cây me cao quá bên vườn bắc,
Nghiêng xuống cho em bẻ một cành.

Có lắm hoàng hôn, mãi cợt đùa,
Quên rằng bãi bể sóng chiều khua,
Và nhà cơm đợi, chờ em vắng,
Em sắp hàng năm để chạy đua.

Rồi đến trăng nhô mới vội về,
Cha cười, song cũng chỉ roi đe:
“Mai mà chơi chậm thì con liệu,
Sắm sửa vài mo để đón che”.

Ai có như em, một ấu thời?
Đi tìm bướm bắt để nuôi chơi,
Búp bê đem tắm hơ cho ấm,
Lửa bén vèo! thôi cháy mất rồi.

Rõ là em cũng quá lôi thôi,
Ai chả còn ghi quãng ầu thời,
Đằng đẵng đường trường cơn gió bụi
Duy còn ôn lại những ngày vui
                       
(Rút từ Sóng thơ)


Mảnh Hồn Thơ


Em muốn thơ em hoàn toàn vui,
Đừng sầu lá rụng, khóc hoa rơi,
Đừng than thở, tiếc ngày qua chóng.
Ước nguyện đành không đạt nguyện rồi!

Ô hay! đâu thoát khỏi triền miên,
Hồn lặng trong mê, ý dậy phiền.
Đời ít khi vui, hoài cảm xúc,
Thương sen lẫn lộn sống bên bùn!
..........................
Cho nên nhiều lúc, muốn thơ cười,
Chợt nghĩ quanh mà bút bỗng rơi!
Ôm mảnh hồn thơ, đường oán hận,
Em dùng thổn thức, dãi nên lời.
                       
(Rút từ Sóng thơ)


Lịch


Lịch trên tường mỗi ban mai tay xé,
Xé dần, đem vứt xuống giỏ mây đan.
Phải đây là xác chết của thời gian?
Mỗi tờ xuống, một ngày đi biệt tích?
Tay ngần ngại cũng thôi đành vô ích,
Vì hôm nay không dính dáng ngày mai.
Lúc bình minh trong sương sớm chưa phai
Là giấy biết thân mình không thể gắng
Người đâu khác dẫu trăm ngàn cay đắng,
Vói tay dài mong níu lại ngày đi
Ý điên rồ người đeo đuổi làm chi,
Tờ mỏng quá, khác đâu ngày qua chóng!
Tình lưu luyến khiến âu sầu phấp phỏng
Lịch cùng ta nào có khác chi nhau?
Lịch hàng năm đem thay đổi một màu
Người một tuổi chớ mơ mòng lui lại
Lịch còn mãi, đời đâu dài được mãi?
Tờ rã tan ra tro bụi chôn vùi...
...
(Theo Việt Nam thi nhân tiền chiến)

(272/10-11)





Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • VĨNH CAO - PHAN THANH HẢIVườn Thiệu Phương là một trong những Ngự uyển tiêu biểu của thời Nguyễn, từng được vua Thiệu Trị xếp là thắng cảnh thứ 2 trong 20 cảnh của đất Thần Kinh. Nhưng do những nguyên nhân lịch sử, khu vườn này đã bị triệt giải từ đầu thời vua Ðồng Khánh (1886-1889) và để trong tình trạng hoang phế mãi đến ngày nay. Trong những nỗ lực nhằm khắc phục các "không gian trắng" tại Tử Cấm Thành và phục hồi các khu vườn ngự của thời Nguyễn, từ giữa năm 2002, Trung tâm BTDTCÐ Huế đã phối hợp với Hội Nghệ thuật mới (Pháp) tổ chức một Hội thảo khoa học để bàn luận và tìm ra phương hướng cho việc xây dựng dự án phục hồi khu vườn này.

  • HỒNG DIỆUNhà thơ Cao Bá Quát (1809-1854) được người đời hơn một thế kỷ nay nể trọng, với cả hai tư cách: con người và văn chương. "Thần Siêu, thánh Quát", khó có lời khen tặng nào cao hơn dành cho ông và bạn thân của ông: Nguyễn Văn Siêu (1799-1872).

  • HÀ VĂN THỊNHI. Có lẽ trong nhiều chục năm gần đây của lịch sử thế giới, chưa có một nhà sử học nào cũng như chưa có một cuốn sách lịch sử nào lại phản ánh những gì vừa xẩy ra một cách mới mẻ và đầy ấn tượng như Bob Woodward (BW). Hơn nữa đó lại là lịch sử của cơ quan quyền lực cao nhất ở một cường quốc lớn nhất mọi thời đại; phản ánh về những sự kiện chấn động nhất, nghiêm trọng nhất đã diễn ra trong ba năm đầu tiên của thiên niên kỷ mới: sự kiện ngày 11/9, cuộc chiến tranh Afganistan và một phần của cuộc chiến tranh Iraq.

  • ĐẶNG TIẾN     (Đọc Hồi ức của Đại tướng Võ Nguyên Giáp)Một tờ báo ở ngoài nước đã giới thiệu bốn cuốn hồi ức của Đại tướng Võ Nguyễn Giáp mới xuất bản. Dĩ nhiên là một bài báo không thể tóm lược được khoảng 1700 trang hồi ký viết cô đúc, nhưng cũng lảy ra được những đặc điểm, ý chính và trích dẫn dồi dào, giúp người đọc không có sách cũng gặt hái được vài khái niệm về tác phẩm.

  • NGUYỄN THỊ ANH ĐÀO       (Đọc tập truyện ngắn “Trà thiếu phụ” của nhà văn Hồng Nhu – NXB Hội Nhà văn 2003)Tôi đã được đọc không ít truyện ngắn của nhà văn Hồng Nhu và hầu như mỗi tập truyện đều để lại trong tôi không ít ấn tượng. Trải dài theo những dòng văn mượt mà, viết theo lối tự sự của nhà văn Hồng Nhu là cuộc sống muôn màu với những tình cảm thân thương, nhiều khi là một nhận định đơn thuần trong cách sống. Nhà văn Hồng Nhu đi từ những sự việc, những đổi thay tinh tế quanh mình để tìm ra một lối viết, một phong cách thể hiện riêng biệt.

  • ĐỖ QUYÊN…Đọc thơ Bùi Giáng là thuốc thử về quan niệm thơ, về mỹ học thi ca. Đã và sẽ không ai sai nhiều lắm, cũng không ai đúng là bao, khi bình bàn về thơ họ Bùi. Nhắc về cái tuyệt đỉnh trong thơ Bùi Giáng, độ cao sâu tư tưởng ở trước tác Bùi Giáng nhiều bao nhiêu cũng thấy thiếu; mà chỉ ra những câu thơ dở, những bài thơ tệ, những đoạn văn chán trong chữ nghĩa Bùi Giáng bao nhiêu cũng bằng thừa…

  • LÊ THỊ HƯỜNGTrong căn phòng nhỏ đêm khuya, giai điệu bản sonat của Beethoven làm ta lặng người; một chiều mưa, lời nhạc Trịnh khiến lòng bâng khuâng; trong một quán nhỏ bên đường tình cờ những khúc nhạc một thời của Văn Cao vọng lại làm ta bất ngờ. Và cũng có thể giữa sóng sánh trăng nước Hương Giang, dìu dặt, ngọt ngào một làn điệu ca Huế khiến lòng xao xuyến.

  • NGÔ MINHĐến tập thơ chọn Giếng Tiên (*), nhà thơ - thầy giáo Mai Văn Hoan đã gửi đến bạn yêu thơ 5 tập thơ trữ tình, trong đó có hai tập thơ được tái bản. Đó là tập đầu tay Ảo ảnh, in năm 1988, tái bản 1995 và tập Hồi âm, in năm 1991, tái bản năm 2000. 15 năm xuất bản 7 đầu sách (2 tập tiểu luận) và đang có trong ngăn kéo vài tập bản thảo tiểu luận nữa, chứng tỏ sức sáng tạo sung mãn đáng nể trọng của một thầy giáo vừa dạy học vừa sáng tác văn chương.

  • NGUYỄN THỊ ANH ĐÀO        (Đọc tập thơ ''Độc thoại trước mặt trời'' của Trần Lan Vinh- NXB Văn học Hà Nội- 2003)Trên thi đàn văn học Việt Nam hiện đại, sự thiếu vắng những cây bút nữ đã trở thành một vấn đề cần được chú trọng. Hầu như mỗi khi phụ nữ cầm bút, điều họ quan tâm nhất đó là sự giải bày tâm sự với ngàn ngàn nỗi niềm trắc ẩn. Nếu viết là một cách để sẻ chia tâm sự thì Trần Lan Vinh là một trường hợp như thế.

  • NGUYỄN THANH TÚMùa đông năm ngoái, anh Đoàn Tuấn từ Hà Nội vào Huế giảng dạy lớp đạo diễn điện ảnh. Dù công việc khá bận rộn nhưng anh vẫn dành cho tôi không ít thời gian tâm sự, bởi ngoài tình cảm thân thiết anh còn là cấp trên của tôi ở toà soạn tạp chí Thế Giới Điện Ảnh. Trong những lần trò chuyện ấy, tôi thật sự bất ngờ khi nghe anh kể chuyện về cuốn sách anh sắp in ở Nhà xuất bản Trẻ mà nội dung của nó là câu hỏi hơn 20 năm nay vẫn luôn canh cánh trong tôi. Vốn dĩ Đoàn Tuấn là nhà biên kịch điện ảnh tên tuổi, anh đã có nhiều kịch bản phim nổi tiếng như: Chiếc chìa khoá vàng (1998), Ngõ đàn bà (1992), Đường thư (2003)...

  • MAI VĂN HOANNguyễn Khoa Điềm đến với thơ hơi muộn nhưng đã sớm định hình một phong cách riêng. Qua các tập Đất ngoại ô (1972), Mặt đường khát vọng (trường ca, 1974), Ngôi nhà có ngọn lửa ấm (1986), Thơ Nguyễn Khoa Điềm (1990), Cõi lặng (2007) ta bắt gặp những suy ngẫm của anh đối với nhân dân, đất nước; những chiêm nghiệm của anh về đời sống xã hội, nhân tình thế thái. Những chiêm nghiệm và suy ngẫm đó được thể hiện bằng một giọng thơ trầm tĩnh, bình dị, sâu lắng và khá hiện đại.

  • NGUYỄN QUANG HÀ       (Đọc Nỗi niềm để ngỏ của Lê Lâm Ứng - Nhà xuất bản Văn học 2002)Đọc thơ Lê Lâm Ứng để tìm những câu mượt mà thì hơi khó. Thảng hoặc lắm mới bắt gặp ở anh tâm trạng thư thái này:                Biết rằng trong cõi nhớ thương                Lạc nhau âu cũng lẽ thường vậy thôi

  • MAI VĂN HOANNguyễn Đắc Xuân không chỉ có chân trong Hội Nhà văn Việt Nam mà anh còn là hội viên Hội Lịch sử Việt Nam, hội viên Hội Nhà báo Việt Nam... Nhưng dù ở cương vị nào thì điều mà anh tâm huyết nhất vẫn là lịch sử và văn hóa Huế.

  • HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNG   (Nhân đọc sách "Gió về Tùng Môn Trang" của Nguyễn Xuân Dũng)Tác giả cuốn sách này là một võ sư đệ bát đẳng huyền đai thuộc phái không thủ đạo, vừa là một nhà hoạt động thương trường nổi tiếng ở Mỹ. Nhưng cuốn sách này không hề bàn đến chuyện đấm đá hơn kém hoặc là chuyện mua bán lời lỗ mà bàn về cái TÂM. Tác giả tỏ ra hết sức chú trọng vũ đạo; nhất cử nhất động đều phải xuất phát từ cái TÂM, cái TÂM viết hoa.

  • TRẦN THUỲ MAI            (Đọc Uẩn khúc, tiểu thuyết của Hoàng Văn Bàng, NXB Thuận Hoá 2002)Câu chuyện xảy ra ở một vùng quê không xa lắm, với một tầm mức tai hại không lớn, gây một ảnh hưởng mới xem qua tưởng chừng không đáng kể. Một ông trưởng phòng ở huyện tham ô vài chục triệu thì đã thấm gì so với những câu chuyện động trời hàng ngày trên các báo, mà thủ phạm mang những chức tước lớn lao hơn, với những số tiền khổng lồ tới hàng nghìn tỉ!

  • MAI VĂN HOAN         (Giới thiệu các tác giả thuộc chi hội nhà văn Việt Nam tại Huế)Ngô Minh là một trong những nhà văn Việt Nam ở Huế được Đài truyền hình Cáp Việt Nam chọn giới thiệu tới 45 phút trong chương trình “Người của công chúng”. Tôi cũng được mời nói đôi lời về anh. Với tôi, Ngô Minh là người làm việc “tới số” và chơi cũng... “tới số”!

  • PHẠM XUÂN NGUYÊNCùng một kiếp bên trời lận đận                  (Bạch Cư Dị - Tỳ bà hành)Nhà văn Bùi Ngọc Tấn vừa cho ra mắt tác phẩm Rừng xưa xanh lá (Mười chân dung văn nghệ sĩ) tại Nhà xuất bản Hải Phòng (1/2003).

  • TÔ VĨNH HÀNhững trang viết sau cùng của một con người luôn luôn là điều thiêng liêng và không bao giờ hết bí ẩn. Vì sao lại dùng từ ấy chứ không phải là chữ kia; đề cập đến cái này chứ không phải là cái khác..? Rất nhiều câu hỏi sẽ đến với người đọc khi trước mắt ta là những ý tưởng hiện hữu sau cùng của một đời người - đặc biệt ở con người vĩ đại như Chủ tịch Hồ Chí Minh. Hồ Chí Minh là cái tên mà mỗi người Việt lúc đọc hay nói, không chỉ diễn đạt một quan niệm gần như vô hạn của nhận thức, mà hơn nhiều thế nữa - là âm sắc tuyệt vời của sự kết tụ những tinh hoa quý giá nhất của trái tim mình.

  • NGUYỄN TỐNGQuê hương đất nước và con người luôn có mối quan hệ gắn bó chặt chẽ, tác động qua lại lẫn nhau trong suốt chiều dày của lịch sử dựng nước và giữ nước. Nó tự nhiên chan hoà đến mức như cá bơi quẫy giữa đại dương, chim tung cánh vô tư giữa bầu trời bát ngát. Đến lúc nào đó, khi con người rơi vào cảnh cá chậu chim lồng, tình cảm, ý thức về đất nước thiêng liêng mới trở nên ám ảnh day dứt.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊ           (Đọc “Thân Trọng Một – con người huyền thoại” của Nguyễn Quang Hà)Đã từ lâu, tên tuổi anh hùng Thân Trọng Một trở nên thân quen với mọi người, nhất là với quân dân Thừa Thiên Huế; những “sự tích” về ông đã thành truyện “truyền kỳ” trong dân chúng và đã được giới thiệu trên nhiều sách báo. Tuy vậy, với “THÂN TRỌNG MỘT – CON NGƯỜI HUYỀN THOẠI”, lần đầu tiên, chân dung và những chiến công của ông đã được tái hiện một cách đầy đủ và sinh động nhất.