Tôn Nữ Thu Hồng - nữ thi sĩ Huế duy nhất có tên trong 'Thi nhân Việt Nam'

15:09 24/10/2011
KHÚC CẦM Thi nhân Việt Nam của Hoài Thanh - Hoài Chân xuất bản năm 1942 là cuốn sách khám phá và đánh giá đầu tiên đối với phong trào Thơ Mới.

Nhà thơ Thu Hồng - Ảnh: sachxua.net

[if gte mso 9]> Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 <![endif][if gte mso 9]> <![endif][if gte mso 10]> <![endif]

Việc lựa chọn tác giả và tác phẩm đương thời là một việc hết sức khó khăn, thế nhưng với cảm thụ sâu sắc, Hoài Thanh và Hoài Chân đã lựa chọn được những tác phẩm thơ hay nhất trong vườn hoa Thơ Mới để bày soạn cho người yêu thơ thưởng thức. Sự chọn lựa ấy được xác nhận là rất tinh tế, các tác phẩm được chọn ngay lập tức thuyết phục được công chúng bạn đọc cả nước lúc bấy giờ và nhiều thế hệ yêu thơ Việt Nam sau này nữa.

Trong số các nhà thơ được tuyển chọn vào tập Thi nhân Việt Nam, thi sĩ gốc Huế có bốn người được chọn: Phan Văn Dật (sinh 1909) ở làng Phú Xuân - Hương Trà, với ba bài thơ: Tiễn đưa, Bi xuân nương, Nàng con gái họ Dương; Mộng Huyền (sinh 1919) ở Huế với tác phẩm Vườn hoang; Nguyễn Đình Thư (sinh 1917) ở Phước Yên, Quảng Điền với các bài thơ: Đến chiều, Sang ngang, Tống biệt, Vương tình, Thiệt thà; Tôn Nữ Thu Hồng với ba bài: Tơ lòng với đẹp, Êm đềm, Mảnh hồn thơ.

Tôn Nữ Thu Hồng sinh ngày 19.7.1922, quê làng Thần Phù, huyện Hương Thủy, Thừa Thiên Huế. Bà thuộc dòng dõi Hoàng tộc nhà Nguyễn, trước học ở Tourane, sau vào học tại trường Đồng Khánh (Huế). Cuộc đời của nữ thi sĩ đúng là nghiệp dĩ chân mệnh tài hoa. Năm 18 tuổi (1940), bà cho xuất bản tập Sóng thơ. Tập thơ in đẹp (chưa rõ tên nhà xuất bản), có tựa của Đạm Phương nữ sĩ, và tranh vẽ bìa của nữ họa sĩ Mộng Hoa. Năm 1941, bà và thơ của bà được Hoài Thanh -Hoài Chân giới thiệu trong Thi nhân Việt Nam. Năm 1968, bà lại được Nguyễn Tấn Long - Nguyễn Hữu Trọng giới thiệu trong bộ sách Việt Nam thi nhân tiền chiến (quyển trung), xuất bản tại Sài Gòn. Cuốn sách cũng cho biết la nữ sĩ Tôn Nữ Thu Hồng đã chết trong một trường hợp bi đát vào năm 1948, khi mới 26 tuổi (theo Wikipedia).

Trong Thi nhân Việt Nam, Hoài Thanh và Hoài Chân đã viết về nữ thi sĩ Tôn Nữ Thu Hồng như sau:

Người ta vẫn nói giọng Huế phải nghe từ miệng con gái Huế mới có duyên. Lần thứ nhất trên thi đàn ta được nghe giọng một người con gái Huế, mà lại là người trong Hoàng tộc: Tôn Nữ Thu Hồng.

Giá Thu Hồng chịu làm những câu trơn tru mà trống rỗng, chắc chẳng khó gì. Ai mà không làm được những câu trơn tru, trống rỗng? Nhưng người có cái ý muốn rất đáng quý là diễn đúng hình dáng riêng của hồn mình. Có phải vì thế mà giọng nói của người có vẻ ngọng ngịu rất ít có trong thơ ta. Ngọng ngịu khi ôn lại quãng đời thơ ấu đã đành; ngọng ngịu cả khi ca ngợi cảnh trời:


Cảnh đẹp cứ dàn thêm bước bước
Lời ngợi khen mỗi phút lại thay thay


Và nữa:

Ở xứ này, nói đến những thiếu nữ làm thơ người ta thường mỉm cười. Hình như thơ là một cái gì to chuyện lắm. Thu Hồng đã tránh được cái mỉm cười mỉa mai ấy vì người rất bình dị, rất hồn nhiên, không lúc nào ra vẻ muốn làm to chuyện”.

Con gái Huế trước thời kỳ Thơ Mới làm thơ viết văn không nhiều lắm, chỉ có 5 người còn được sử sách nhắc đến. Triều Nguyễn khởi thủy cho văn học nữ có Bà Huyện Thanh Quan với những câu thơ hoài cảm: “Ngàn mai lác đác chim về tổ/ Dặm liễu bâng khuâng khách nhớ nhà” (Chiều hôm nhớ nhà). Bà từng sống ở Phú Xuân 8 năm, dạy các hoàng nữ trong cung, khi trở ra Bắc công chúa Mai Am có tiễn đưa bằng bài thơ “Tống Lưu Ái Lan thất Nguyễn Thị quy Hà Nội”. Tiếp đó có bà Nguyễn Nhược Thị Bích (1830 - 1909), từng dạy hoàng tử Ưng Thị sau là vua Đồng Khánh, và hoàng tử Ưng Đăng sau là vua Kiến Phúc. Sau vụ Thất thủ kinh đô, bà làm bài thơ lục bát nhan đề “Loan dư hạn thục ca” (Xe loan vào đất Thục) thuật lại chuyện vua Hàm Nghi chạy ra Tân Sở. Các nữ danh sĩ khác phải kể đến Nguyễn Phúc Vĩnh Trinh (sinh 1824), tự là Trọng Khanh, hiệu là Nguyệt Đình, hoàng nữ thứ mười tám của vua Minh Mạng. Khi chồng là phò mã Phạm Đăng Thuật còn sống, hai vợ chồng cùng nhau xướng họa thành tập thơ. Bà để lại một tập thơ là “Nguyệt đình thi thảo”, rất tiếc là chưa tìm thấy. Nguyễn Phúc Trinh Thận, tự là Thúc Khanh, hiệu là Mai Am (sinh 1826), có sáng tác tập “Diệu Liên thi tập”. Nguyễn Phúc Tĩnh Hòa (1830), tự là Quý Khanh, hiệu là Huệ Phố, để lại tập Huệ Phố Thi tập.

Đặc biệt về sau, có Nữ sử Đạm Phương. Là một nữ học giả suốt đời đấu tranh cho sự đổi mới giáo dục con người, giải phóng phụ nữ, chấn hưng đất nước.

Đến thời kỳ Thu Hồng làm thơ, là thời buổi cái mới thôi thúc: “Tình chúng ta đã đổi mới, thơ chúng ta cũng phải đổi mới vậy. Cái khát vọng cởi trói cho thi ca chỉ là cái khát vọng nói rõ những điều kín nhiệm - u uất, cái khát vọng được thành thật. Một nỗi khát vọng khẩn thiết đến đau đớn”... (Thi nhân Việt Nam)

Thời buổi ấy sự bảo thủ đang còn đè nặng, đến mức có người còn đòi chém cả Lưu Trọng Lư vì dám đổi mới thơ (!). Con gái Huế bấy giờ làm thơ cũng chưa nhiều lắm, vậy mà Thu Hồng làm thơ mới vượt lên tất cả, để đi vào Thi nhân Việt Nam thì thật đáng nể vì. Thậm chí, Thi nhân Việt Nam còn đánh giá Tôn Nữ Thu Hồng khá cao, xếp ngang hàng với nhiều anh tài khác: “Chung quanh đôi bạn Xuân Diệu - Huy Cận có...: Tế Hanh, Huyền Kiêu, Đinh Hùng, Phan Khắc Khoan, Thu Hồng, Nguyễn Đình Thư... Đôi nhà thơ như Lan Sơn, Thanh Tịnh, lúc nãy đã thấy một bên Thế Lữ, bây giờ lại kéo nhau về đây”.

Hơn nửa thế kỷ sau, các thế hệ học trò Huế còn thi nhau chép trong sổ tay những tư tưởng triết lý không bóng bẩy, nhưng rất dễ đi vào lòng người bởi cái chân chất hợp với tuổi học trò:

Hãy là hoa, xin hãy khoan là trái
Hoa nồng hương mà trái lắm khi chua


Chép vậy đó, rồi không biết là của ai, có kẻ nói của Xuân Diệu, có kẻ nói của Chế Lan Viên. Vậy mà thơ đó là của Tôn Nữ Thu Hồng.

Đó là dấu hiệu người đời sau ít biết đến nữ thi sĩ xứ Huế duy nhất có tên trong Thi nhân Việt Nam. Bởi vì sau đó, các công trình nghiên cứu rất ít nhắc đến tên hoặc có nhắc thì cũng không nói cho đầy đủ. Chỉ duy Việt Nam Thi nhân tiền chiến của Nguyễn Tấn Long - Nguyễn Hữu Trọng là còn lưu ý. Ngay cả trong Từ điển văn học do NXB Khoa học Xã hội - Hà Nội - xuất bản 1983, cũng không có tên của nữ nhà thơ tiên phong xứ Huế ngày ấy... Mãi đến năm 1994, NXB Lao động có ấn hành cuốn “Vầng trăng đêm ấy”, là tập thơ xướng họa giữa nữ sĩ Thu Hồng và thi sĩ Nguyễn Viết Thâm. Phần đầu có đoạn thi sĩ Viết Thâm kể về mối tình của ông với nữ sĩ Thu Hồng, có thủ bút của cả hai người.

Để nhớ lại thi ca của một người, thi ca của một thời, xin giới thiệu lại những bài thơ đã được Thi nhân Việt Nam Việt Nam thi nhân tiền chiến tuyển chọn. Điều dễ nhận thấy là sau những vần thơ trong sáng trong tập Sóng thơ, bài “Lịch” (in trong Việt Nam Thi nhân Tiền chiến cho thấy nữ sĩ đã bắt đầu nhận thức được nỗi buồn hữu hạn của phận người, dẫu lúc ấy bà chỉ mới chỉ ngoài 20 tuổi.



Êm đềm


Hồi tưởng nhiều mai, dưới ánh dương,
Em vừa tỉnh giấc, dậy bên giường,
Mẹ em đôi mắt đầy âu yếm
Vây bọc chim khua, rộn giấc hường.

Vạn buổi êm trời, dịu mát hương,
Chưa bằng đôi mắt chứa yêu đương!
Mẹ hiền tựa cửa khi chờ ngóng,
Em thấy lòng vui lướt dặm đường.

Cũng có nhiều đêm gió rít vang,
Mẹ em ốm nặng thức trong màn,
Em ngồi mơ sách người xưa ước,
Nếu có thì em cũng ước tràn.

Nếu có thì em: ước mẹ lành,
Cha cho nhiều bánh với nhiều tranh,
Cây me cao quá bên vườn bắc,
Nghiêng xuống cho em bẻ một cành.

Có lắm hoàng hôn, mãi cợt đùa,
Quên rằng bãi bể sóng chiều khua,
Và nhà cơm đợi, chờ em vắng,
Em sắp hàng năm để chạy đua.

Rồi đến trăng nhô mới vội về,
Cha cười, song cũng chỉ roi đe:
“Mai mà chơi chậm thì con liệu,
Sắm sửa vài mo để đón che”.

Ai có như em, một ấu thời?
Đi tìm bướm bắt để nuôi chơi,
Búp bê đem tắm hơ cho ấm,
Lửa bén vèo! thôi cháy mất rồi.

Rõ là em cũng quá lôi thôi,
Ai chả còn ghi quãng ầu thời,
Đằng đẵng đường trường cơn gió bụi
Duy còn ôn lại những ngày vui
                       
(Rút từ Sóng thơ)


Mảnh Hồn Thơ


Em muốn thơ em hoàn toàn vui,
Đừng sầu lá rụng, khóc hoa rơi,
Đừng than thở, tiếc ngày qua chóng.
Ước nguyện đành không đạt nguyện rồi!

Ô hay! đâu thoát khỏi triền miên,
Hồn lặng trong mê, ý dậy phiền.
Đời ít khi vui, hoài cảm xúc,
Thương sen lẫn lộn sống bên bùn!
..........................
Cho nên nhiều lúc, muốn thơ cười,
Chợt nghĩ quanh mà bút bỗng rơi!
Ôm mảnh hồn thơ, đường oán hận,
Em dùng thổn thức, dãi nên lời.
                       
(Rút từ Sóng thơ)


Lịch


Lịch trên tường mỗi ban mai tay xé,
Xé dần, đem vứt xuống giỏ mây đan.
Phải đây là xác chết của thời gian?
Mỗi tờ xuống, một ngày đi biệt tích?
Tay ngần ngại cũng thôi đành vô ích,
Vì hôm nay không dính dáng ngày mai.
Lúc bình minh trong sương sớm chưa phai
Là giấy biết thân mình không thể gắng
Người đâu khác dẫu trăm ngàn cay đắng,
Vói tay dài mong níu lại ngày đi
Ý điên rồ người đeo đuổi làm chi,
Tờ mỏng quá, khác đâu ngày qua chóng!
Tình lưu luyến khiến âu sầu phấp phỏng
Lịch cùng ta nào có khác chi nhau?
Lịch hàng năm đem thay đổi một màu
Người một tuổi chớ mơ mòng lui lại
Lịch còn mãi, đời đâu dài được mãi?
Tờ rã tan ra tro bụi chôn vùi...
...
(Theo Việt Nam thi nhân tiền chiến)

(272/10-11)





Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NGUYỄN ĐỨC TÙNG(Tiếp theo Sông Hương số 245 tháng 7-2009 và hết)

  • Nguyễn Khắc Phê quê ở Hương Sơn, Hà Tĩnh. Anh xuất thân trong một gia đình trí thức. Bố anh từng đậu Hoàng Giáp năm 19 tuổi. Các anh trai đều là bác sĩ, giáo sư, tiến sĩ nổi tiếng như Nguyễn Khắc Viện, Nguyễn Khắc Dương, Nguyễn Khắc Phi... Có người nói vui “Nguyễn Khắc Phê con nhà quan tính nhà lính”.

  • VĂN CẦM HẢI(Đọc “Ngôi nhà vắng giữa bến sông”, Tập truyện ngắn của Nguyễn Kiên - Nxb Hội Nhà văn, 2004)

  • NGUYỄN QUANG SÁNGMấy năm gần đây, dân ta đi nước ngoài càng ngày càng nhiều, đi hội nghị quốc tế, đi học, đi làm ăn, đi chơi, việc xuất ngoại đã trở nên bình thường. Đi đâu? Đi Mỹ, đi Pháp, đi Trung Quốc, Đài Loan, Singapore, Hàn Quốc... Nhà văn Văn Cầm Hải cũng đi, chuyến đi này của anh, anh không đi những nơi tôi kể trên, anh đi Tây Tạng, rất lạ đối với tôi.

  • HÀ KHÁNH LINHDân tộc ta có hơn bốn ngàn năm dựng nước và giữ nước, đã xảy ra nhiều cuộc nội loạn ngoại xâm, nhiều thế hệ người Việt Nam đã cầm vũ khí ra trận giết giặc cứu nước, nhưng mãi đến cuối thế kỷ 20 những chàng trai nước Việt mới phải đi giữ nước từ xa, mới đi giữ nước mà mang trong lòng nỗi nhớ nước như tứ thơ của Phạm Sĩ Sáu.

  • LÊ VĂN THÊSau sáu năm (kể từ 2002) nhà văn Cao Hạnh được kết nạp vào Hội Nhà văn Việt Nam, (cuối năm 2008); Hội Văn học nghệ thuật Quảng Trị mới có thêm một nhà văn được kết nạp. Đó là Văn Xương.

  • NGÔ MINHTrong đợt đi Trại viết ở Khu du lịch nước nóng Thanh Tân, anh em văn nghệ chúng tôi được huyện Phong Điền cho đi dạo phá Tam Giang một ngày. Nhà nghiên cứu văn hóa dân gian Nguyễn Thế là người dẫn đường. Anh dân sở tại, thuộc lòng từng tấc đất cổ xưa của huyện.

  • PHẠM PHÚ PHONG…Làng em đây, núi rừng Trung Việt cũng là đây/Xưa kia đã hùng dũng đánh Tây/Giờ lại hiên ngang xây thành chống Mỹ/Đường Trường Sơn là đường chân lý/Đã cùng quê em kết nghĩa hẹn hò… (Quê em, 1971)

  • HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNGKể từ tập thơ đầu tay (Phía nắng lên in năm 1985), Huyền thoại Cửa Tùng (*) là tập thơ thứ mười (và là tập sách thứ 17) của Ngô Minh đã ra mắt công chúng. Dù nghề làm báo có chi phối đôi chút thì giờ của anh, có thể nói chắc rằng Ngô Minh đã đi với thơ gần chẵn hai mươi năm, và thực sự đã trở thành người bạn cố tri của thơ, giữa lúc mà những đồng nghiệp khác của anh hoặc do quá nghèo đói, hoặc do đã giàu có lên, đều đã từ giã “nghề” làm thơ.

  • Võ Quê được nhiều người biết đến khi anh 19 tuổi với phong trào xuống đường của học sinh, sinh viên các đô thị miền Nam (1966). Lúc đó, anh ở trong Ban cán sự Sinh viên, học sinh Huế. Võ Quê hoạt động hết sức nhiệt tình, năng nổ bất chấp nguy hiểm với lòng yêu nước nồng nàn và niềm tin sắt đá vào chính nghĩa.

  • PHẠM PHÚ PHONGThỉnh thoảng có thấy thơ Đinh Lăng xuất hiện trên các báo và tạp chí. Một chút Hoang tưởng mùa đông, một Chút tình với Huế, một chuyến Về lại miền quê, một lần Đối diện với nỗi buồn, hoặc cảm xúc trước một Chiếc lá rụng về đêm hay một Sớm mai thức dậy... Với một giọng điệu chân thành, giản đơn đôi khi đến mức thật thà, nhưng dễ ghi lại ấn tượng trong lòng người đọc.

  • ĐẶNG TIẾNNhà xuất bản Trẻ, phối hợp với Công ty Văn hoá Phương Nam trong 2002 đã nhẩn nha ấn hành Tuyển tập Hoàng Phủ Ngọc Tường, trọn bộ bốn cuốn. Sách in đẹp, trên giấy láng, trình bày trang nhã, bìa cứng, đựng trong hộp giấy cứng.

  • NGUYỄN ĐỨC TÙNG(Tiếp theo Sông Hương số 244 tháng 6-2009)Mến tặng các nhà văn Tô Nhuận Vỹ, Khánh Phương, Trần Thị Trường, cháuDiệu Linh, và những người bạn khác,lớn lên trong những hoàn cảnh khác.

  • NGUYỄN THỤY KHANhà thơ Quang Dũng đã tạ thế tròn 15 năm. Người lính Tây Tiến tài hoa xưa ấy chẳng những để lại cho cuộc đời bao bài thơ hay với nhịp thơ, thi ảnh rất lạ như "Tây Tiến", "Mắt người Sơn Tây"... và bao nhiêu áng văn xuôi ấn tượng, mà còn là một họa sĩ nghiệp dư với màu xanh biểu hiện trong từng khung vải. Nhưng có lẽ ngoài những đồng đội Tây Tiến của ông, ít ai ở đời lại có thể biết Quang Dũng từng viết bài hát khi cảm xúc trên đỉnh Ba Vì - quả núi như chính tầm vóc của ông trong thi ca Việt Nam hiện đại. Bài hát duy nhất này của Quang Dũng được đặt tên là "Ba Vì mờ cao".

  • HOÀNG KIM DUNG      (Đọc trường ca Lửa mùa hong áo của Lê Thị Mây)Nhà thơ Lê Thị Mây đã có nhiều tập thơ được xuất bản như: Những mùa trăng mong chờ, Dịu dàng, Tặng riêng một người, Giấc mơ thiếu phụ, Du ca cây lựu tình, Khúc hát buổi tối, v.v... Chị còn viết văn xuôi với các tập  truyện: Trăng trên cát, Bìa cây gió thắm, Huyết ngọc, Phố còn hoa cưới v.v...Nhưng say mê tâm huyết nhất với chị vẫn là thơ. Gần đây tập trường ca Lửa mùa hong áo của nhà thơ Lê Thị Mây đã được nhà xuất bản Quân đội nhân dân ấn hành. (quý IV. 2003)

  • PHẠM PHÚ PHONGTrước khi có Hoa nắng hoa mưa (NXB Thanh Niên, 2001), Hà Huy Hoàng đã có tập Một nắng hai sương (NXB Văn Nghệ TP Hồ Chí minh, 1998) và hai tập in chung là Một khúc sông Trà (NXB Văn nghệ TP Hồ Chí Minh) và Buồn qua bóng đuổi (NXB Văn hoá Dân tộc, 2000). Đã có thơ đăng và giới thiệu trên các báo Văn nghệ Trẻ, Văn nghệ TP Hồ Chí Minh, Lao động, Người lao động, các tập san, tạp chí Thời văn, Tiểu thuyết thứ bảy, Cẩm thành hoặc đăng trong các tuyển thơ như Hạ trong thi ca (1994), Lục bát tình (1997), Thời áo trắng (1997), Ơn thầy (1997), Lục bát xuân ca (1999)...

  • Hoàng Phủ Ngọc Tường. Sinh ngày 9 tháng 9 năm 1937. Quê ở Triệu Long, Triệu Hải, Quảng Trị. Năm 1960, tốt nghiệp khóa I, ban Việt Hán, Trường đại học Sư phạm Sài Gòn. Năm 1964, nhận bằng cử nhân triết Đại học Văn khoa Huế. Năm 1960 - 1966, dạy trường Quốc Học Huế. Từng tham gia phong trào học sinh, sinh viên và giáo chức chống Mỹ - ngụy đòi độc lập thống nhất Tổ quốc. Năm 1966 - 1975, nhà văn thoát li lên chiến khu, hoạt động ở chiến trường Trị Thiên. Sau khi nước nhà thống nhất, từng là Chủ tịch Hội Văn nghệ Quảng Trị, Tổng biên tập Tạp chí Cửa Việt.

  • ANH DŨNGLTS:  Kết hợp tin học với Hán Nôm là việc làm khó, càng khó hơn đối với Phan Anh Dũng - một người bị khuyết tật khiếm thính do tai nạn từ thuở còn bé thơ. Bằng nghị lực và trí tuệ, anh đã theo học, tốt nghiệp cử nhân vật lý lý thuyết trường Đại học Khoa học Huế và thành công trong việc nghiên cứu xây dựng hoàn chỉnh bộ Phần mềm Hán Nôm độc lập, được giải thưởng trong cuộc thi trí tuệ Việt Nam năm 2001.Sông Hương xin giới thiệu anh với tư cách là một công tác viên mới.

  • SƠN TÙNGLTS: Trong quá trình sưu tầm, tuyển chọn bài cho tập thơ Dạ thưa Xứ Huế - một công trình thơ Huế thế kỷ XX, chúng tôi nhận thấy rằng, hầu hết các nhà thơ lớn đương thời khắp cả nước đều tới Huế và đều có cảm tác thơ. Điều này, khiến chúng tôi liên tưởng đến Bác Hồ. Bác không những là Anh hùng giải phóng dân tộc, là danh nhân văn hoá thế giới mà còn là một nhà thơ lớn. Các nhà thơ lớn thường bộc lộ năng khiếu của mình rất sớm, thậm chí từ khi còn thơ ấu. Vậy, từ thời niên thiếu (Thời niên thiếu của Bác Hồ phần lớn là ở Huế) Bác Hồ có làm thơ không?Những thắc mắc của chúng tôi được nhà văn Sơn Tùng - Một chuyên gia về Bác Hồ - khẳng định là có và ông đã kể lại việc đó bằng “ngôn ngữ sự kiện” với những nhân chứng, vật chứng lịch sử đầy sức thuyết phục.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊAnh Hoài Nguyên, người bạn chiến đấu của nhà văn Thái Vũ (tức Bùi Quang Đoài) từ thời kháng chiến chống Pháp, vui vẻ gọi điện thoại cho tôi: “Thái Vũ vừa in xong TUYỂN TẬP đó!...” Nhà văn Thái Vũ từng được bạn đọc biết đến với những bộ tiểu thuyết lịch sử đồ sộ như “Cờ nghĩa Ba Đình” (2 tập - 1100 trang), bộ ba “Biến động - Giặc Chày Vôi”, “Thất thủ kinh đô Huế 1885”, “Những ngày Cần Vương” (1200 trang), “Thành Thái, người điên đầu thế kỷ” (350 trang), “Trần Hưng Đạo - Thế trận những dòng sông” (300 trang), “Tình sử Mỵ Châu” (300 trang)... Toàn những sách dày cộp, không biết ông làm “tuyển tập” bằng cách nào?