NADIA DIUDINA (*)
Còn ngồi trên máy bay mà trái tim tôi đã đập rộn ràng. Khi nghĩ đến cuộc gặp gỡ với Mêsôra yêu dấu, với quê hương của Êxênhin - nhà thơ cùng quê.
Thi hào Nga Sergei Esenin - Ảnh: internet
Từ thuở ấu thơ, Êxênhin đã dẫn dắt tôi vào thế giới tuyệt vời của miền Riadan rộng lớn, vẫy gọi đến những cánh rừng Mêsôra, để cảm nhận được nỗi buồn của những miền xa hoang vắng, bày tỏ niềm hân hoan vui sướng của tuổi trẻ trước vẻ đẹp của quê hương thân yêu.
"Tôi lại về đây, ôi miền quê yêu dấu
Miền quê bao mơ màng, trìu mến của tôi".
Đường về xứ sở "vải hoa bạch dương", về quê hương của Xécgây Alếchxanđrơ Êxênhin, bắt đầu từ con đường nhựa Mátxcơva - Riadan, cách thủ đô 10 ki-lô-mét, ở thị trấn Rupnưi vùng Riadan. Đối với riêng tôi, con đường ấy bắt đầu từ Sêrêmêchép, nơi mà những cây bạch dương thân thiết quấn quít lấy tôi, và suốt cả kỳ nghỉ của mình, tôi đã làm "người tù binh tự nguyện" của chúng.
"Chiếc Xaraphan trên mình
Ôi bạch dương - sao mảnh mai lả lướt
Mái tóc vàng đẫm ướt sương mai
Ta trọn đời yêu, yêu mãi yêu hoài".
Khi còn là một cô nữ sinh, nhìn bức chân dung của Êxênhin để trên bàn và tôi đã viết:
"Ôi khuôn mặt thân quen
Nhức nhối Iòng tôi bao tình cảm lạ kỳ
Trong ánh mắt sáng ngời niềm kiêu hãnh,
Tất cả như ngập chìm trong nỗi buồn đau
Cặp lông mày màu sáng
Và mái tóc quăn lòa xòa trước trán...
Đồng ruộng Riadan - dường như anh thấy đó
Đến với ta từ những dòng thơ
Và chìa tay như muốn nói
"Êxênhin - Anh đừng buồn nữa nhé
Và hãy kể cho chúng tôi nghe
Về màu xanh của bầu trời khoáng đạt
Về rặng bạch dương đang khoác Xaraphan
Về đồng ruộng và những căn nhà
Về đất nước mà anh đã ngợi ca
Đất nước mà anh trọn đời yêu mến
Xêriôda, Xêriôda... chúng ta là bạn
Dù rằng anh không còn trên trái đất...
Dù mặt trời đã khuất bóng mây
Và bài ca buồn vang khắp đó đây
Vì sao anh đi, không một lời từ biệt
Và sao thơ anh không còn ngân tiếng?
Nhưng anh đi để lại chúng tôi
Những ước mơ táo bạo
Với bao tình cảm vô bờ
Xin cám ơn Êxênhin
Nhà thơ thân mến
Vì lòng nhân từ
Và tình yêu dịu ngọt của anh!"
Cách vùng Cônxtachinốp 10 ki-lô-mét, con đường nhựa đi qua cánh rừng cổ Ramencốpxki từ thời Êxênhin. Những cây bạch dương trắng xóa, những cây thùy dương đỏ rực... và chúng ta có thể thấy được tất cả những gì đã làm nhà thơ xúc động khi gặp lại miền quê yêu dấu. Rất có thể ngay tại nơi đây đã nảy sinh những vần thơ, nỗi luyến tiếc những khoảnh khắc tuyệt vời quá nhanh của cuộc sống.
"Hỡi trái tim chai lạnh hững hờ
Mày sẽ không đập theo vòng nhịp cũ
Và xứ sở bạch dương quyến rũ
Không làm đau những vết chân trần".
Bài thơ "Cánh rừng vàng khuyên nhủ" của Êxênhin đã thấu suốt tâm trạng bi ai. Bài thơ đó được viết ở Cônxtachinốp vào năm 1924, và chẳng lẽ lại không thể nói rằng bài thơ đã gợi nên cảnh mùa thu của cánh rừng Ramencốpxki và những đàn sếu đang chao lượn. Có lẽ, trong những ngày thu buồn chán, trên con đường về Conxtachinốp - trong tâm hồn của nhà thơ đã nảy sinh những hình ảnh thi vị của nước Nga nghèo đói và kiệt lực:
"Đến hôm nay tôi vẫn còn mơ thấy
Đồng ruộng, rừng cây, đồng cỏ quê hương
Bị bao phủ bởi một màu vải xám
Của bầu trời phương bắc thê lương".
![]() |
Ngôi nhà gỗ của Êxênhin ở làng Cônxtanchinốp - Ảnh: internet |
Phía sau làng Ramenca - mà tên gọi của nó được nhắc đến trong truyện "Bờ dốc" của Êxênhin, phía bên trái mở ra một cánh đồng mênh mông, xa xa làng xóm ẩn hiện như một "con đường" trải dài theo bờ cao của dòng Ôka. Làng Cudơminxki đón tôi bằng màu xanh bát ngát của những khu vườn. Trong tiểu sử của mình nhà thơ viết: "Tôi sinh ngày 21 tháng 9 năm 1895 ở tỉnh Riadan, huyện Cudơminxki, làng Cônxtachinốp". Ở làng Cudơminxki từ thời Êxênhin có một công viên được bảo tồn. Những cây gia, cây du vươn cành lá sum suê trên những triền dốc đứng. Ở đây, trên bờ sông Ôka, có hai ngôi nhà bằng gỗ cất xây từ năm 1903 được bảo tồn. Trong hai ngôi nhà đó X.I Brêdênhép và N.V Ôrơlốp - bạn của Êxênhin đã sống, và thỉnh thoảng nhà thơ có đến chỗ họ. Từ Cudơminxki đi đến Cônxtachinốp, vào chính giữa trung tâm Cônxtachinốp, con đường kết thúc bằng quảng trường xa rộng lớn, xung quanh những ngôi nhà gỗ bao bọc lấy quảng trường như một đường viền, trong số đó có ngôi nhà của thân sinh Êxênhin với ba cửa sổ trông thẳng ra sông Ôka. Trước ngõ có một cây dương cao lớn, cành lá sum suê tỏa bóng trước hiên nhà. Những người em gái của Êxênhin nói rằng, nhà thơ đã trồng cây dương đó vào năm 1924 nhân lúc ông về thăm quê hương. Trên vách của gian phòng ngoài thoáng mát, những dụng cụ lao động đơn giản của người nông dân: cái phạng, cái liềm, gàu tát nước, xô thùng, đòn gánh... treo lũng lẳng. Ở hành lang, trên chiếc móc áo bằng gỗ treo chiếc áo bông của bà Tachiana Phêđôrôva. Trong những ngày đông lạnh giá mẹ của nhà thơ luôn luôn mặc chiếc áo ấy. Ở đây còn có cả chiếc rương con mà nhà thơ trẻ đã đựng những đồ vật riêng, những quyển sách yêu thích của nhà thơ - như sách của Lécmôntốp, Puskin, Gôgôn và những tập bản thảo của những tác phẩm đầu tay của mình.
Chiếc lò sưởi kiểu Nga chiếm hết một phần tư căn nhà. Đã lâu rồi chiếc lò sưởi đã không rọi sáng căn bếp bằng những âm thanh vui tai của ngọn lửa, những ánh sáng lung linh của những dòng thơ của Êxênhin sống động trong mọi tình tiết đời sống của "căn nhà gỗ vàng".
Trong phòng, cũng như suốt cả thời gian Êxênhin về thăm, luôn đặt bộ bàn ghế phủ khăn vải lanh. Phía trên treo những tấm ảnh gia đình, giấy khen của Êxênhin khi còn đi học. Trên bàn để một ngọn đèn dầu hỏa mà nhà thơ thường thắp.
Những tập bản thảo, mấy cây bút chì, bó hoa đồng nội trong chiếc bình đất sét - tất cả dường như Êxênhin vừa mới rời khỏi bàn và đi đâu đó. Gió lay động những bức mành trắng bên cửa sổ, tiếng tích tắc đều đặn của chiếc đồng hồ treo tường... nhà thờ ở đâu đây rất gần... Một tình cảm đặc biệt đọng lại trong tâm trí tôi sau đợt viếng thăm căn nhà gỗ, nơi đã nảy sinh những dòng thơ bất hũ, những dòng thơ cháy bỏng tình yêu đối với tất cả những sinh vật xung quanh. Trong vườn, một căn nhà cũ nằm sâu giữa trang trại, từ cửa sổ của căn nhà, trong lúc làm việc nhà thơ đã thấy sắc đỏ của cây thùy dương, ở nơi đây, dưới bóng râm của cây dâu cạnh ngôi nhà nhỏ, trong sâu lặng của căn nhà kho, nhà thơ đã xây dựng nên hình ảnh các nhân vật trong bản trường ca "Anna Xnhêgira" và nhiều nhân vật khác. Có lẽ khi mùa hoa táo và hoa anh đào nở rộ, thì những dòng thơ của Êxênhin vang lên một âm hưởng tuyệt vời:
"Tôi nghĩ rằng
Tuyệt vời biết mấy
Trái đất
Và con người ở đấy".
Trên trái đất này không có gì tuyệt diệu và bất ngờ bằng những con đường ở Mêsôrơxki. Những con đường ấy cho chúng ta biết về quá khứ và đưa chúng ta trở về với hiện tại. Dọc theo những con đường anh cũng có thể đoán được tương lai của xứ sở lạ kỳ này. Vẻ đẹp trầm lặng của Mêsôrơxki đã cuốn hút lấy tôi: mặt hồ với những làn nước màu xanh trời, màu đen, màu trắng. Những đàn sếu chấp chới xa xa... cùng với con trai và bạn bè thuở nhỏ tôi bơi thuyền du ngoạn trên hồ. Buổi sáng ở Mêsôrơxki đến thật nhẹ nhàng. Dù ai mới một lần đi trên sông Pra đều biết đến sự biến dị không chỉ riêng lòng sông mà cả bờ của nó. Mỗi khúc ngoặt của con sông tựa như màn trang trí trên sân khấu. Khúc ngoặt bên phải cao và thẫm màu đất sét - bờ sông bỗng đột ngột lao thẳng xuống dưới và biến thành một dãi cát dài vàng óng phù sa, xa xa đồng cỏ rộ mùa hoa nở và một cánh rừng hướng tới dòng sông. Khúc ngoặt của con sông và cánh rừng nhường chỗ cho bờ dốc rậm rạp dài chừng mươi mười lăm mét. Dốc rồi lại thoải, dốc rồi lại thoải con đường dẫn tới đồn biên phòng nổi tiếng mà những người dân làng Grisin - một làng xa hẻo lánh ở Mêsôra chỉ cho - nằm khoanh tròn quanh dòng sông Pra.
Vào năm 47, sau chiến tranh Pautốpxki tình cờ lạc vào rừng Mêsôra và ở lại mấy ngày trong căn nhà nhỏ của người gác rừng Alếchxây Rentốp, và sau đó ông đã viết câu chuyện về đồn biên phòng. Nhà văn đã đi khắp đất nước nhưng lại trốn tránh sự lộn xộn ở thủ đô chính tại những cánh rừng Mêsôra. Tại sao vậy? Chính nhà văn đã viết: "Những cánh rừng Mêsôra cũng trang trọng như đại giáo đường", "Không có gì tuyệt và thích thú bằng đi lang thang suốt ngày trong những cánh rừng này". Pautốpxki không chỉ một lần đến đồn biên phòng thân quen, mà đã sống hàng tuần ở đó, và càng ngày càng say mê bởi cái vẻ đẹp mê hồn của thiên nhiên ở đây. Đến những ngày cuối đời, ông vẫn khao khát về đây, nơi mà ông có thể sống và làm việc thoải mái. Có lẽ, cả Êxênhin, cả Pautốpxki và cả nhiều nhà văn nhà thơ khác, mãi mãi ở lại đây, trong những cánh rừng Mêsôra này.
"Và, nếu như cần phải bảo vệ đất nước, thì một nơi nào đó trong sâu lắng con tim, tôi biết rằng tôi sẽ bảo vệ mảnh đất cỏn con này, nơi đã dạy tôi biết nhìn nhận cái đẹp, dù cho miền rừng trầm lặng này nhìn bề ngoài không đẹp, nhưng tình yêu đối với nó vẫn không bị lãng quên, như mối tình đầu e ấp không bao giờ bị quên lãng bởi thời gian". Những lời đó của Pautốpxki vang lên trong tôi khi tôi đi tham quan Mêsôra. Và sau đó, khi đứng trước mộ của Êxênhin ở nghĩa trang Vagancốpxki ở Mátxcơva, nhìn lên biển hoa tươi thắm quanh tượng đài kỷ niệm, tôi nghĩ rằng, trong kỷ nguyên thảm họa của chiến tranh hạt nhân vũ trụ thì việc nâng cao những giá trị tinh thần có một giá trị mới không thể gì thay thế được đối với sự sống và toàn thể nhân loại tiến bộ. Tất cả mọi người hãy đọc Êxênhin!
"Khi trên khắp trái đất này,
Lòng hận thù dân tộc
Và mọi đau buồn, giả dối mất đi
Bằng tất cả thực chất trong người thi sĩ
Tôi sẽ ngợi ca
Một phần sáu trái đất
Với tên gọi "Nước Nga"
Nadia Diudina
THÁI THỊ CẨM THỦY dịch
(SH30/04-88)
------------------------------
(*) Bà Nadia Diudina, hiện công tác ở hãng thông tấn APN, Hà Nội, người cùng quê với nhà thơ nổi tiếng Êxênhin. Bài viết theo yêu cầu của Sông Hương.
Cuốn tự truyện lần đầu được xuất bản của nữ nhà văn Laura Ingalls Wilder - tác giả cuốn tiểu thuyết nổi tiếng “Ngôi nhà nhỏ trên thảo nguyên” - sẽ cho độc giả được biết những điều không như mơ đằng sau cuộc sống được “tô vẽ” trong cuốn tiểu thuyết…
Trong tác phẩm trình bày những suy ngẫm về đạo Thiên Chúa, “Bức thư gửi một linh mục” (Letter to a Priest) được viết một năm trước khi tác giả qua đời vào năm 1943, Simone Weil đã đưa ra một nhận định đáng lưu ý: “Đối với bất kỳ người nào, việc đổi tôn giáo cũng là điều nguy hiểm như việc đổi ngôn ngữ đối với một nhà văn. Nó có thể thành công song cũng có thể dẫn đến những hậu quả khốc hại.”
ROBERT J.C. YOUNG(1)
"Chủ nghĩa hậu thực dân/hậu thuộc địa” (postcolonialism) là thuật ngữ được sử dụng để định danh cho một loại hình nghiên cứu học thuật liên ngành kết hợp giữa chính trị, lí thuyết và lịch sử; được xây dựng nhằm mục đích tạo ra một diễn đàn xuyên quốc gia cho những nghiên cứu lấy nền tảng là bối cảnh lịch sử của chủ nghĩa thực dân cũng như bối cảnh chính trị của những vấn đề đương đại của quá trình toàn cầu hóa.
Một nghiên cứu mới cho thấy người Ai Cập cổ đại có thể đã bắt đầu ướp xác sớm hơn 1.500 năm của so với dự đoán ban đầu.
Kênh đào Panama đã chính thức khai trương cách đây đúng một thế kỷ, vào ngày 15/8/1914. Bất chấp việc phải đối mặt với nhiều thách thức trong thời đại mới, sự kỳ vĩ của nó vẫn khiến người ta không khỏi kinh ngạc.
Mới đây, Travellers and Magicians (2003), bộ phim dài đầu tiên của điện ảnh Bhutan, được chiếu ở Bangkok (Thái Lan), đã khiến người xem suy ngẫm về đất nước nhỏ bé nhưng nổi danh toàn cầu về “chỉ số hạnh phúc” này.
Sự trỗi dậy của tổ chức Nhà nước Hồi giáo đang gây thiệt hại nghiêm trọng cho những khu di tích văn hóa ở Iraq và Syria.
Bộ sách "Hành trình về Phương Đông" của tác giả giả Baird T. Spalding, khám phá bí ẩn tâm linh của vùng đất Ấn Độ, lần đầu được phát hành trọn bộ ở Việt Nam.
Alfred Eisenstaedt - nhiếp ảnh gia của tờ Life - nhớ lại lần chụp hình với đại văn hào ở Cuba. Ông bị nhà văn "đòi giết" trong cơn say xỉn.
Họ là những con người tài năng nhất trong giới văn chương nhưng cũng đồng thời là những con người có số phận bi đát không kém.
Tiểu thuyết gia Nhật Bản từng yêu một cô gái mồ côi làm phục vụ bàn. Họ đính ước nhưng không bao giờ trở thành vợ chồng bởi cô gái đột ngột hủy hôn không một lời giải thích.
WILLIAM GRIMES
Một ngôn ngữ khác” - tác phẩm mới của Francesca Marciano, kể về một thiếu nữ Ý tên Emma si tình tiếng Anh. Sự cuốn hút của thứ tiếng ấy đến từ người bản địa là một cậu bé Anh Quốc hấp dẫn tại khu nghỉ mát ở bãi biển Hy Lạp mà Emma đang sống cùng gia đình. Thế nhưng thật khó tách bạch sự ràng buộc với ham muốn. Phải chăng cậu chính là chiếc vé mở lối cho chị đến với tiếng Anh, hay ngược lại?
Chàng thổ dân bận chiếc khố bằng lá cây, mình trần cháy nắng, khẽ khàng bước sâu vào bụi rậm để tiến lại gần con mồi. Trên tàng cây cao, những con chim vẫn đang véo von. Anh dừng lại, nhẹ nhàng rút mũi tên từ trong túi nhỏ đeo bên người cẩn thận đặt vào cái ống dài, đưa lên miệng nhắm vào con chim gần nhất rồi… thổi mạnh. “Phụp”, một tiếng gọn nhẹ vang lên và con chim rơi xuống.
HUYỀN SÂM - TUYẾT MAI
Từ một huyền thoại trong Kinh thánh, Judas đã bước ra cuộc sống như một mệnh đề đạo đức có tính phổ quát. Nhiều lĩnh vực như hội họa, điêu khắc, điện ảnh đã lấy Judas làm chất liệu tượng trưng cho bản tính phản trắc của con người. Tuy nhiên, ở lĩnh vực tiểu thuyết, Judas được luận giải rất đa chiều, thậm chí có tính phản đề, nhất là sau sự kiện phát hiện về Kinh Phúc âm theo Judas(1).
Mới đây, các thành phố triều đại Pyu của Myanmar đã lọt vào danh sách 1.000 địa điểm trên toàn cầu được công nhận là Di sản thế giới của UNESCO.
UNESCO vừa chính thức công nhận danh hiệu Di sản Thế giới cho một di tích cổ xưa nổi tiếng - đường mòn Inca chạy qua 6 quốc gia Nam Mỹ.
Một hang động thời tiền sử ở miền nam nước Pháp, hang Grotte Chauvet, với rất nhiều bích họa được coi là những tác phẩm nghệ thuật thuộc vào hàng sớm nhất thế giới, vừa được công nhận là di sản thế giới.
Đó là tít bài viết trước giải vô địch bóng đá thế giới 2014 (2014 FIFA World Cup - Brazil) lần thứ 20 tại Brazil, được đăng trên nhật báo Bild, Đức của đương kim Tổng thống Đức Joachim Gauck, người Đông Đức, từng đồng sáng kiến hoạch định chương trình tái thống nhất nước Đức, luôn dấn thân cho sự nghiệp đấu tranh vì quyền của mỗi người dân cả trong lẫn ngoài nước.
Vừa qua, các đài truyền hình ở Ấn Độ đã trình chiếu chương trình truyền hình về cuộc đời Đức Phật trên kênh Doordarshan và Zee TV. Hai kênh này được phát sóng rộng rãi khắp nước Ấn Độ và cả khu vực Nam Á. Mới đây nhất, phần 39 của chương trình đã được phát sóng vào ngày 25-5-2014.
Biêlôruxia - Nước cộng hòa Xô-viết phía Tây với dân số 10 triệu người. Đất nước của hàng trăm nghìn con sông, hồ lớn nhỏ, nông sâu. NHÊ MAN là một trong những dòng sông lớn nhất của nước Cộng hòa Biêlôruxia. Con sông đã có bao nhiêu huyền thoại và nhiều bài hát về nó. Xuất phát từ Biêlôruxia "NHÊ MAN" trải dài theo lãnh thổ của nước cộng hòa rồi chảy ra biển Ban Tích.