Sáng 5-11, Viện Văn học Việt Nam đã tổ chức toạ đàm nhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh PGS – nhà nghiên cứu văn học Vũ Đức Phúc. Đây là một dịp để các thế hệ Viện Văn học ngồi lại cùng ôn cố và “soi chiếu cho tương lai” – như lời PGS,TS Nguyễn Đăng Điệp, Viện trưởng Viện Văn học nhận định.
Toạ đàm nhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh PGS Vũ Đức Phúc.
PGS, nhà văn, nhà cách mạng lão thành Vũ Đức Phúc (1920-2015, còn có các bút danh Hồng Kỳ, Lãng Bạc, Lê Hậu, Tấn Trung), sinh ngày 12-11-1920 ở làng Ái Mộ, thị trấn Gia Lâm (nay thuộc quận Long Biên, Hà Nội). Ông thuộc thế hệ đặt những viên gạch nền móng cho sự hình thành và phát triển của Viện Văn học Việt Nam. GS Phong Lê – nguyên Viện trưởng Viện Văn học - cho biết: “GS Vũ Đức Phúc có thể xem là thế hệ thứ hai của Viện Văn học. Thế hệ đầu tiên là thế hệ rạng danh trước năm 1945 như GS Đặng Thai Mai, Hoài Thanh, Nam Trân, Trần Thanh Mại, Phạm Thiều, Cao Xuân Huy – đó là những cái tên lừng lẫy trước đó. Thế hệ thứ hai là thế hệ trung kiên, như Hoàng Trinh, Vũ Đức Phúc, Nam Mộng, Cao Huy Đỉnh, cũng toàn những người lừng lẫy cả”.
Ông Phúc thuộc thế hệ cán bộ tiền khởi nghĩa. Trong chín năm kháng chiến chống Pháp, ông từng trải qua các chức vụ: Chủ tịch Ủy ban Kháng chiến xã Ngọc Thụy, Chủ tịch Ủy ban Kháng chiến thị xã Đáp Cầu và huyện Võ Giàng (Bắc Ninh), Trưởng Ty Tuyên truyền văn nghệ tỉnh Bắc Ninh. Từ 1955-1957, ông làm Trưởng phòng Văn nghệ - Sở Văn hóa Hà Nội. Đến năm 1958, ông chuyển sang làm cán bộ Tiểu ban Văn nghệ thuộc Ban Văn giáo Trung ương Đảng; từ 1959, ông công tác tại Viện Văn học thuộc Ủy ban Khoa học Nhà nước (nay là Viện Văn học thuộc Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam), được phong học hàm Phó Giáo sư (1980), trải qua các chức vụ: Trưởng phòng Lý luận văn học, Văn học Việt Nam hiện đại, Văn học nước ngoài rồi Phó Viện trưởng kiêm Tổng biên tập Tạp chí Văn học (1970-1984). Tính từ ngày về Viện Văn học (1959) đến khi nghỉ hưu (1990), nhà nghiên cứu Vũ Đức Phúc đã có ba mươi năm gắn bó và phấn đấu, góp phần quan trọng vào quá trình xây dựng, phát triển của Viện Văn học.
Trưởng thành từ Hội văn hoá cứu quốc cùng các tên tuổi như Như Phong, Nguyên Hồng. Nam Cao, sau này, khi làm việc tại Viện Văn học, ông được xem như có đóng góp lớn vào việc tuyên truyền, phát huy giá trị Đề cương Văn hoá Việt Nam 1943. Ông cũng đã xuất bản nhiều công trình lý luận, nghiên cứu, phê bình, tranh luận, dịch thuật, viết truyện thơ, truyện danh nhân: Thua bạc gán vợ (1958), dịch Quan thanh tra và Voltaire – Tuyển tập truyện (1963), soạn Sơ thảo lịch sử Văn học Việt Nam 1930-1945 (1964); viết Bàn về những cuộc đấu tranh tư tưởng trong lịch sử văn học Việt Nam hiện đại, 1930-1954 (1971); Trên mặt trận văn học (1972); Bàn về phương pháp nghiên cứu văn học (1973); Đi-đơ-rô (1986), Bàn về văn học (2001); cùng nhiều công trình nghiên cứu viết chung và gần 90 tiểu luận in trên Tạp chí Văn học… Năm 2017, PGS Vũ Đức Phúc được truy tặng Giải thưởng Cống hiến của Hội Nhà văn trong lĩnh vực lý luận phê bình văn học.
GS Phong Lê trong buổi toạ đàm.
Trong sự nghiệp của mình, không phải không có những tranh cãi quanh thái độ quyết liệt không khoan nhượng và thẳng thắn nhưng ông Phúc được các đồng nghiệp đương thời đánh giá là một người có sức làm việc say mê và có kiến văn rất rộng. PGS, TS Nguyễn Đăng Điệp bày tỏ: “Nền tảng của PGS Vũ Đức Phúc rất chắc chắn. Trong khi bây giờ, tính trình diễn đang lấn át cái kiến thức gốc rễ thì những người như thế hệ PGS Phúc là tấm gương lớn”. Trong toạ đàm, ông Mạnh có kể lại một câu chuyện có một GS khác thường ngày vẫn vênh với PGS Vũ Đức Phúc về quan điểm học thuật nhưng cũng chính vị GS đó đã nói với ông Mạnh rằng trong cái nhìn của ông ấy, mặc dù quan điểm khác nhau nhưng PGS Vũ Đức Phúc là một người đọc tử tế, kiến thức chắc chắn và đặc biệt viết có sở cứ. “Những nhà khoa học dù có cái nhìn khác nhau nhưng vẫn có cách nhìn khách quan về nhau theo tôi là rất đáng trân trọng”, Viện trưởng Viện Văn học nói.
Những gì lịch sử để lại, cả mặt tích cực lẫn mặt giới hạn của nó đều là kinh nghiệm cho đời sau. Bởi thế, nói về những đóng góp về thế hệ PGS Vũ Đức Phúc, GS Phong Lê có nói: “Thời đại đó đòi hỏi như thế. Hoàng Trinh, Vũ Đức Phúc là thế, Nam Mộng, Nam Trân là thế. Thời đại đòi hỏi đến đâu họ cống hiến đến đấy, tận cùng sức lực của mình”.
Giải thưởng văn học Sông Mekong lần thứ 11 sẽ diễn ra tại thủ đô Phnompenh, Campuchia vào cuối năm 2020. Hai tác giả Việt Nam đoạt Giải thưởng năm nay là tác giả Trần Nhuận Minh với tác phẩm sách thơ Qua sóng Trường Giang và tác giả Trần Ngọc Phú với tác phẩm Từ Biên giới Tây Nam đến đất Chùa Tháp.
Trong dịp kỷ niệm 100 năm Ngày sinh nhà thơ Tố Hữu (4-10-1920 - 4-10-2020), NXB Hội Nhà văn cho ra mắt bạn đọc tập sách dày dặn, công phu và nghĩa tình Tố Hữu - Một đường thơ, một đường đời.
Nhà thơ Vũ Quần Phương cho rằng, người cuối cùng của phong trào Thơ mới vừa từ giã bạn đọc ở tuổi 100 – thi sĩ Nguyễn Xuân Sanh - là người “không để thơ… ngủ quên trên thành công của dòng lãng mạn trước đó”.
Đoàn Ngọc Thu nói rằng chị thích thơ của mình ngày xưa hơn. Những xúc cảm ấy vẫn như còn váng vất trong những vần thơ trong tập “Sau bão” (NXB Hội Nhà văn, 2020).
Ra đời cách đây 25 năm, bộ truyện “Kính Vạn Hoa” của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh có ý nghĩa đặc biệt, khơi luồng gió mới cho văn học thiếu nhi Việt Nam thời kỳ đổi mới, mang đến món ăn tinh thần lý thú bổ ích. Tuy nhiên, quá trình thực hiện bộ sách cũng thử thách những người chọn lựa bước trên con đường dài sáng tạo không ngừng nghỉ.
Nhà thơ Nguyễn Xuân Sanh sinh năm 1920 tại Ðà Lạt, nguyên quán Quảng Bình, lúc nhỏ theo học ở Trường Quốc học Quy Nhơn (cũ), sau đó chuyển ra Hà Nội.
Sáng 22/11/2020, Nhà thơ Trần Đăng Khoa đã thông báo chia sẻ tin buồn cho các nhà thơ và những người yêu thơ đó là nhà thơ tiền bối nổi tiếng Nguyễn Xuân Sanh vừa qua đời.
NXB Văn học giới thiệu “Nghề vương bụi phấn”, tác phẩm thứ ba của tác giả Nguyễn Huy Du, gồm những câu chuyện về tình thầy trò với văn phong mộc mạc, giản dị nhưng lôi cuốn, nhân Ngày Nhà giáo Việt Nam 20-11.
Nhà thơ Nguyễn Xuân Sanh sinh ngày 16 tháng 11 năm 1920, quê gốc thuộc huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình. Ông cũng là một trong những hội viên tiền phong tham gia xây dựng Hội Nhà văn Việt Nam. Năm nay ông tròn 100 tuổi. Hội Nhà văn Việt Nam vừa tổ chức chúc thọ nhà thơ Nguyễn Xuân Sanh tại trụ sở số 9, Nguyễn Đình Chiểu hôm 9/11/2020 với sự tham gia của lãnh đạo Hội, các nhà văn nhà thơ và đại diện gia đình của ông.
“Nẻo vào văn xuôi đương đại Việt Nam” là tập tiểu luận - phê bình của TS Bùi Như Hải, do NXB Văn học ấn hành tháng 9-2020.
Bằng sự lao động miệt mài và nghiêm túc, nhà văn Lê Văn Nghĩa thường gửi đến độc giả những đầu sách độc đáo, nhiều cuốn trong số đó có giá trị như một “bảo tàng ký ức” của không chỉ riêng tác giả.
Thạch Lam (1910 - 1942) là đại biểu xuất sắc của văn xuôi lãng mạn Việt Nam thời kì 1930 - 1945. Văn Thạch Lam đọng nhiều suy nghiệm, nó là cái kết tinh của một tâm hồn nhạy cảm và từng trải về sự đời (Nguyễn Tuân).
Sáng ngày 20/10/2020, Hội Nhà văn Việt Nam đã tổ chức kỉ niệm 100 năm ngày sinh nhà thơ Tố Hữu (4/10/1920 – 4/10/2020).
Đã có nhiều nhà văn viết về Hà Nội - Thủ đô yêu dấu - như Thạch Lam, Vũ Bằng, Tô Hoài, Nguyễn Khải… Nhưng tập truyện ký “Hà Nội và tôi” (NXB Hội Nhà văn) gần 300 trang với hơn 20 tác phẩm của nhà văn Vũ Ngọc Tiến, một người Hà Nội gốc, đã cho ta biết thêm một phần chân dung về những con người của đất Tràng An thanh lịch.
Tháng 10, nhân kỷ niệm 66 năm ngày Giải phóng Thủ đô, Nhã Nam giới thiệu tới bạn đọc một tác phẩm mới của nhà văn Nguyễn Trương Quý, cây viết vốn quen thuộc với những tản văn về các góc nhỏ của Hà Nội: “”Hà Nội bảo thế là thường”.
Rất lâu rồi, không có luận văn, luận án nào về thơ Tố Hữu. Cũng lâu lắm rồi, sau Hà Minh Đức, Trần Đình Sử… rất ít người viết về thơ ông. Tôi cũng chưa bao giờ viết về thơ Tố Hữu khi ông còn sống. Nhưng với chúng tôi, thơ Tố Hữu là nguồn suối tươi mát, mạch ngầm sống động trong đời sống tinh thần. "Chúng tôi" ở đây là thế hệ những người ở lứa tuổi 70. Trong quãng thời gian 70 năm của một đời người thì ít nhất có 30 năm (1954 - 1975) chúng tôi đã được sống với thơ Tố Hữu.
Bằng kiến thức của một chuyên gia đầu ngành và sự trân trọng quá khứ một đi không trở lại, ông đã chỉ ra giá trị của cuốn sách và ý nghĩa của việc làm sống lại những kí ức Hà Nội rất đặc biệt thông qua cuốn sách này...
Có một bộ phim tôi không thực nhớ nội dung, một bộ phim của Woody Allen mang tên "Đóa hồng tím ở Cairo", câu chuyện mang máng mà tôi còn nhớ, đó là một người phụ nữ thất bại trong tất cả mọi khía cạnh cuộc đời, rồi cô vào một rạp chiếu bóng, xem một bộ phim, và trong giây phút ấy, cô quên béng mất cuộc đời mình, cô òa khóc, không phải vì mình, mà vì những nhân vật trong phim.
Năm 1941, với việc xuất bản Dế mèn phiêu lưu ký ở tuổi 20 (bản in đầu tiên có nhan đề Con dế mèn), Tô Hoài có được hai vinh dự lớn trong nghề cầm bút: Trở thành người mở đầu thể loại truyện đồng thoại; Tác phẩm mở đầu lại là đỉnh cao của thể loại, đồng thời là một trong những áng văn học thiếu nhi nổi tiếng thế giới nhất của Việt Nam.
1. Quan sát tiểu thuyết Việt Nam đương đại, chúng ta sẽ nhận thấy có một số triều đại, nhân vật được các nhà văn tập trung khai khác với mật độ khá dày như nhà Trần với Trần Khánh Dư, Trần Hưng Đạo (xuất hiện trong Sương mù tháng giêng của Uông Triều, Trần Khánh Dư của Lưu Sơn Minh, Chim ưng và chàng đan sọt của Bùi Việt Sĩ, Đức Thánh Trần của Trần Thanh Cảnh…), nhà Lê với Nguyễn Trãi (xuất hiện trong Hội thề của Nguyễn Quang Thân, Nguyễn Trãi của Bùi Anh Tấn…), nhà Tây Sơn với Nguyễn Huệ (xuất hiện trong Sông Côn mùa lũ của Nguyễn Mộng Giác, Tây Sơn bi hùng truyện của Lê Đình Danh…).