LÊ PHƯƠNG LIÊN
…Đêm đêm rì rầm trong tiếng đất
Những buổi ngày xưa vọng nói về…
(Đất nước - Nguyễn Đình Thi)
Ngày mồng 5 Tết Quý Tỵ năm nay, tôi vào Hoàng thành Thăng Long, mỗi bước chân đi mà cảm thấy run run như đứa trẻ lẫm chẫm tập bước. Đất dưới chân mình lặng lẽ lắm, rắn chắc lắm, vững như đá cứng đã dãi dầu mưa gió ngàn năm, thế mà vẫn mềm mại êm ái đón nhận bước chân đứa con trở về…
Bước qua cổng Đoan Môn, tôi nhìn sâu vào vết hào di tích. Dưới nền đất đời Nguyễn là dấu vết thềm điện đời Lê, nhìn sâu xuống nữa là những viên gạch nền điện đời Trần, sâu xuống nữa là dấu vết cột trụ cung điện thời Lý… Và sâu xuống nữa là đất nước thăm thẳm tình thâm.
Tôi đứng lặng thinh mà lắng nghe tiếng gió xuân mới mẻ đang thổi trên những cây muỗm cổ thụ ngàn tuổi, tôi nghe thấy tiếng rì rầm có thật như tiếng chuông chùa ngân vọng đi vọng lại, nhưng tiếng buổi nào từ điện Diên Hồng vọng lên. Tôi nhận ra tiếng đất không phải bằng tai mà có lẽ bằng nhịp đập của trái tim mình, hơi rộn lên, hơi lạc đi một chút bất thường... Tiếng đất ấy có lẽ không đến với trí tinh khôn của kẻ vừa bước trên mặt đất vừa tính toán thời giá mà có lẽ lại chợt đến với người có tình đang xúc cảm với đất, vừa bước vừa thương…
Thường tiếng tình của đất ấy đã đến với tôi vào những buổi sáng ngày 30 Tết khi tôi về quê cha, quỳ lạy trước nơi yên nghỉ của cha mẹ, ông bà… mời mẹ mời cha, mời ông bà tổ tiên về ăn Tết. Nhìn những giọt mưa xuân lặng lẽ rơi, trong mờ mờ những làn hương bay về hư ảo, tôi lại nghe thấy tiếng đất giao tình rung động và thương mến trở về với tôi, không chỉ trên những ngón tay đang chắp lại mà có lẽ đang thấm trên cả ngũ quan vừa đang trầm xuống gần hơn với đất ẩm lại vừa đang thăng lên đón gió giao mùa.
Rồi, vào dịp Nguyên Tiêu tết Quý Tỵ này, tôi bay vào Huế.
Tôi được theo các anh chị Liên hiệp các Hội VHNT Thừa Thiên Huế đi viếng mộ thi nhân, từ cụ Phan Bội Châu “ông già Bến Ngự” đến Tùng Thiện Vương Miên Thẩm… rồi các chí sĩ, các nhà thơ cách mạng Trần Cao Vân, Thái Phiên, Nguyễn Chí Diểu, Hải Triều, Thanh Hải… Đến trước từng ngôi mộ nhìn làn khói nhang bay tôi lại lắng mình nhận ra tiếng đất, tiếng tình của đất, hình như lại cả tiếng tình của nước sông Hương nhè nhẹ vỗ về đất Cố đô, như tiếng ru của người mẹ ôm con trong lòng đất sâu thăm thẳm…
Bỗng rồi, tôi nhận ra tiếng anh chị em văn nghệ sĩ thương nhau mà nói gửi vào mây gió. Người thì cầm chén rượu rót lên tấm bia đá người bạn thơ đã đi vào cõi vĩnh hằng. Người thì nói: “Tau rửa mặt cho mi đó, đẹp trai chưa! Uống đi cho đã…” Người trên trần thế nhớ người đã khuất là vậy, tình người xứ Huế khiến tôi thấy nao nao trong lòng.
Nhưng đến đất Cố đô đâu có phải chỉ thấy những gì đã khuất, đã xưa cũ, bụi phủ, rêu phong… Tôi được ngắm nhìn bông mai mới nhất bừng nở trên cành của cây mai đã hơn trăm tuổi. Xuân là thế, xuân đến để mình bỗng thấy mình mới hẳn lên, nhỏ lại như đứa trẻ lòng chợt ấm áp khi nghe bà mẹ già làng Kim Long nói: “Tết ni thì vẫn có bánh tét, mứt gừng như rứa…”
Gừng năm nay thì vẫn cay như gừng năm ngoái, năm kia… và trăm năm trước, bởi nó vẫn mang tình của đất ấy “gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau”. Và, mứt năm nay vẫn được làm theo lối trăm năm cũ, bởi thế mà vẫn ngon, ngon như bánh chưng gói và nấu theo Lang Liêu từ nghìn năm trước… Tôi đi chầm chậm trên đất làng Kim Long xứ Huế để cúi xuống chạm đất trước cây hoa Hải Đường, những bông hoa rất đẹp đã rơi xuống đất, chạm với tình đất hoa như ửng hồng hơn hay sao đó. Tôi dừng chân lại mà muốn hỏi hoa rằng: “Hoa đến từ đâu?” Từ thời công chúa Huyền Trân vào đất này để cho hai châu Ô, Lý về với Đại Việt làm nên xứ Thuận Hóa bây giờ chăng? Cây hoa như hơi nghiêng cành lặng lẽ. Đó là một cây non mọc trên đất cũ, cây như đang muốn kể cùng ai, chuyện chưa xa, chuyện rất gần…
Bỗng nghe hoa kể chuyện mà lại nghĩ đến nghề biên tập, một nguyên tắc mà ai cũng biết là muốn thay đổi một chữ trong câu văn, câu thơ của tác giả, người biên tập cần phải trao đổi thảo luận để tác giả đồng ý mới được chữa. Đó là những câu văn mới sinh sau đẻ muộn, còn những câu cổ điển tầm cỡ như “Nam quốc sơn hà Nam đế cư” thì câu chữ đã bất di bất dịch không còn ai dám động vào được nữa. Đó là văn hóa phi vật thể đã vậy, còn văn hóa vật thể những gì cha ông đã xây dựng nên từ xưa trên mảnh đất hàng trăm năm, hàng ngàn năm đâu có phải cứ tự nhiên xóa bỏ, tự nhiên thêm bớt mà chẳng cần biết đến việc hỏi ĐẤT một câu? ĐẤT nơi lưu giữ lại dấu vết của những đời người là cha ông ta là tổ tiên ta… Nếu ta nhìn sâu xuống một tấc đất ta đã chạm đến cả một thời đại đã qua… cảm giác ngày xuân nhìn sâu xuống Hoàng thành Thăng Long lại trào lên trong tôi , dù lúc này đây tôi đang ở Huế, cái cảm giác đứng trên đất vừa bước vừa thương lại lay động lòng tôi, tình đất lại dội lên day dứt trong tôi.
Khi ta ở chỉ là nơi đất ở
Khi ta đi đất đã hóa tâm hồn.
(Chế Lan Viên)
Vâng, thủa ấu thơ ta sống với mảnh vườn, với ngôi nhà cổ với những ngọn rau, ngọn cỏ với cây hoa cây trái... để rồi đến lúc đi xa đất quê hương đã thành tâm hồn ta thành một “cố viên tình” mãi mãi trong tim.
Ngày xuân ấy, đứng trước cây mai trăm tuổi, cây hải đường non tơ trước những ngọn cỏ mọc hoang dại nơi mảnh vườn ấy, tôi biết là mình đang ở “cố viên tình” của một người... Tôi lại cảm nhận tình đất đang dội lên trong nhịp đập của trái tim mình và để rồi lại nhận ra rõ ràng hơn không phải ai ai cũng có thể nhận ra tình đất. Người vô tình không ít mà lại rất nhiều... chính vì thế mà những việc tẩy xóa, thêm bớt xây cất bừa bãi trên đất nước mình vẫn xảy ra mà đất không được hỏi, mà nước không được hỏi... Mà không biết rằng “đêm đêm rì rầm trong tiếng đất", người xưa vẫn về hỏi lại hôm nay...
Gió theo lối gió, mây đường mây.
.........
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà.
(Đây thôn Vĩ Dạ - Hàn Mạc Tử)
Có lẽ các nhà thơ đã dự cảm giúp cho mọi người thấu hiểu cái mong manh của tình người, mong manh như số phận của cỏ cây, mong manh như số phận của một mái nhà, dù mái nhà ấy có bằng xi măng cốt thép...
Và, có lẽ làn khói nhang của văn nhân thắp hương mộ thi nhân trong ngày Nguyên Tiêu năm nay lại cảm thấu với tình đất, với tình nước, với tình trời, giao hòa với cõi vô thủy vô chung, gửi “cố viên tình” từ thời Lý Bạch, Đỗ Phủ... về trăm năm sau, nghìn năm sau...
Huế, Nguyên Tiêu Quý Tỵ, 2013
L.P.L
(SH290/04-13)
Tuy chỉ là món ăn dân dã và phổ biến ở Huế, nhưng để chế biến được một tô bánh canh cá tràu ngon đúng vị… món ăn này cũng đòi hỏi người chế biến phải tỉ mẩn và khéo léo. Ở Huế, bánh canh có nhiều cách chế biến khác nhau, như bánh canh nấu tôm, chả cua, bò viên, da heo... Tuy nhiên, đặc sắc và thu hút nhất vẫn là bánh canh cá tràu (người Bắc gọi là cá quả, miền Nam gọi đó là cá lóc).
Huế những ngày này mưa dài lê thê. Từ sáng đến tối hầu như mưa không lúc nào ngớt. Đi kèm mưa là cái lạnh rét luồn vào da thịt, làm tím tái những khuôn mặt, bàn tay, đôi chân trần đang tất tả mưu sinh trên đường phố.
BẠCH LÊ QUANG
Nghệ thuật và âm nhạc nói riêng, khi vượt qua lằn ranh của hữu hạn sẽ trở thành những sấm truyền vĩnh hằng, một thứ Kinh mà con người sẽ truyền rao trong cõi nhân sinh đầy biến động.
HỒ THỊ HỒNG
Vua Thiệu Trị từng nói với bề tôi rằng: “Việc dạy học là chính sự trọng đại của triều đình”(1). Nhưng với truyền thống hiếu học của nhân dân ta, từ lâu vấn đề giáo dục đã được xã hội hóa một cách sâu rộng từ trong từng gia đình, dòng họ và toàn xã hội Việt Nam.
(SHO). “Đã mê ớt đỏ cay nồng
Tìm trong vị hến một dòng Hương xanh
Ruốc thơm, cơm nguội, rau lành
Mời nhau buổi sáng chân thành món quê”
PHẠM THỊ PHƯƠNG THẢO
Trong chuyến đi Huế dự lễ kỷ niệm ba mươi năm Tạp Chí Sông Hương vừa rồi, tôi được Tổng Biên Tập Hồ Đăng Thanh Ngọc ghé tai thông báo: “Chị cứ đi chơi Sông Hương và thăm quan quanh cố đô Huế những chỗ chưa biết, nhưng đừng nên khám phá hết để còn có cái thôi thúc mình lần sau vô Huế mà khám phá tiếp nữa. Nhưng dù đi đâu các anh chị cũng đừng quên đến thăm Gác Trịnh mới khánh thành nhé, hay lắm đấy, dù bận mấy cũng nên tranh thủ ghé thăm Gác Trịnh dù là vài phút ”.
HỒ ĐĂNG THANH NGỌC
Buổi sáng, tôi ngồi trong Gác Trịnh nhìn ra ngoài cửa sổ. Bên ngoài trời đang se sắt chuẩn bị mưa, sự se sắt nằng nặng.
PHẠM HUY THÔNG
Đầu năm 1986, nghĩ rằng năm nay là một năm có nhiều sự kiện trọng đại diễn ra trong nước ngoài nước, tôi e rằng kỷ niệm mùa hè 200 năm trước của Phú Xuân và của dân tộc, dù không phải là không có tầm vóc, có thể chỉ được chú ý có mức độ, - nếu có được nhắc đến.
LÊ HUY ĐOÀN
Những cửa thành của Kinh thành Huế ghi dấu những sự kiện từ kinh đô thất thủ ngày (23/5 năm Ất Dậu, 1885) sau cuộc chiến không cân sức giữa phe chủ chiến của triều đình Huế với giặc Pháp rồi đến sự tàn phá của thiên tai qua trận lụt 1953 làm 4 cửa thành đổ sập, rồi lại trải mình qua chiến sự Tết Mậu Thân (1968) với bao nhiêu vết hằn của bom đạn.
VÕ NGỌC LAN
Như một mặc định của thời gian khi Huế là kinh đô của cả nước và nơi đây cũng là kinh đô của những chiếc áo dài. Vì vậy con gái Huế được làm quen với tà áo dài rất sớm. Bởi khi mới sinh ra đã thấy mẹ, thấy bà, thấy những người phụ nữ chung quanh khoác trên mình chiếc áo dài.
G.S. TRẦN QUỐC VƯỢNG
Thế kỷ XVI chứng kiến sự vỡ ra của nền quân chủ quan liêu Nho giáo Việt Nam.
THANH TÙNG
Tháng 10/2012, tại khách sạn Rex - thành phố Hồ Chí Minh, chiếc bánh đậu xanh Phượng hoàng vũ khổng lồ của nghệ nhân ẩm thực Tôn Nữ Thị Hà và ái nữ Phan Tôn Tịnh Hải được vinh danh Kỷ lục châu Á - do Hội Kỷ lục châu Á công nhận.
HOÀNG PHỦ NGỌC PHAN
Ở Huế có nhiều món ngon nổi tiếng như bún bò, cơm hến, dấm nuốt, bánh khoái, bèo, nậm, lọc… điều này đã được nói nhiều. Nhưng còn nhiều chuyện có thể bạn không để ý lắm.
NGUYỄN HUY KHUYẾN
Vườn Thiệu Phương là một trong những Ngự uyển tiêu biểu của thời Nguyễn, từng được vua Thiệu Trị xếp là thắng cảnh thứ 2 trong 20 cảnh của đất Thần Kinh. Khu vườn này đã được đi vào thơ ca của các vua nhà Nguyễn như là một đề tài không thể thiếu.
VÕ NGỌC LAN
Đã từ lâu danh xưng mai Huế như một mặc định cho loài hoa mai có năm cánh với sắc vàng rực rỡ. Loài hoa mai ấy chỉ sinh trưởng trên đất Cố đô và cũng là đặc sản của vùng sông Hương núi Ngự.
LÊ VĂN LÂN
Cuộc tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân 1968 với việc chiếm giữ Huế 26 ngày đêm đã tạo nên bước ngoặt lớn của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, làm sụp đổ chiến lược chiến tranh cục bộ của Mỹ - Ngụy, làm lung lay ý chí xâm lược của kẻ thù, buộc địch phải ngồi vào bàn đàm phán Paris.
NGUYỄN HỒNG TRÂN
Câu chuyện này do nhà thơ Bích Hoàng (tức Hoàng Thị Bích Dư - cựu nữ sinh trườngĐồng Khánh - Huế) kể lại cho tôi nghe trực tiếp vào đầu năm 2012 tại nhà riêng của cô ở 170 phố Cầu Giấy, Hà Nội.
TRẦN BẠCH ĐẰNG
Mỗi địa danh của đất nước ta chứa mãnh lực riêng rung động lòng người, từ những khía cạnh rất khác nhau. Có lẽ lịch sử và thiên nhiên vốn ghét bệnh "cào bằng", bệnh "tôn ti đẳng cấp" cho nên lưu dấu vết không theo một công thức nào cả. Quy luật khách quan ấy làm phong phú thêm đời sống nội tâm của dân tộc ta.
NGUYỄN ĐẮC XUÂN
Đề cập đến sự nghiệp cầm bút của Thượng Chi Phạm Quỳnh cần phải có một cái viện nghiên cứu làm việc trong nhiều năm mới hiểu hết được. Do hoàn cảnh lịch sử, tôi chưa bao giờ dám nghĩ đến mình có thể tìm hiểu một khía cạnh nào đó trong sự nghiệp to lớn của ông.
LTS: Đêm 30/8 vừa qua, tại Huế, Hội đồng toàn quốc họ Phạm Việt Nam tổ chức giới thiệu cuốn sách “Phạm Quỳnh - Một góc nhìn”, tập 2 do nhà sử học Nguyễn Văn Khoan biên soạn. Nhiều nhà nghiên cứu, nhiều văn nghệ sĩ tên tuổi của Huế đã đến dự và phát biểu ý kiến.