Tiếng hát và du thuyền trên sông Hương

19:27 05/06/2009
MAO THUỶ THANH (*)Tiếng hát và du thuyền trên sông Hương là nét đẹp kỳ thú của xứ Huế. Trên sông Hương có hai chiếc cầu bắc ngang: cầu Phú Xuân và cầu Trường Tiền nhưng trước đây người dân Huế thường có thói quen đi đò ngang. Bến đò ở dưới gốc cây bồ đề cổ thụ, nằm đối diện với trường Đại học Sư phạm Huế. Một hôm, tôi và nữ giáo sư Trung Quốc thử ngồi đò sang ngang một chuyến. Trên đò đã có mấy người; thấy chúng tôi bước xuống cô lái đò áp đò sát bến, mời chúng tôi lên đò.

Du thuyền trên sông Hương

Hương Giang thật trong xanh, cá lượn lờ và rong rêu dưới đáy trông rõ mồn một, dường như tôi không hề cảm thấy nước sông Hương bị ô nhiễm. Đò ra giữa sông thì chiếc thuyền rồng chở khách vừa lướt tới. Trên thuyền đều là du khách người phương Tây, họ có đôi mắt xanh mái tóc vàng trông thật đẹp. Họ chào chúng tôi: “hello” (hêlô), dường như họ xem chúng tôi là người Việt Nam vậy, trong lòng chúng tôi dấy lên một chút khoái cảm. Lại một chiếc thuyền nhỏ xuất hiện ở chỗ khúc quanh dòng sông, thuyền chất đầy rong rêu để về làm thức ăn cho gia súc, thuyền muốn chất đầy nữa đến nỗi thuyền muốn chìm xuống mặt nước. Thuyền lướt tới gần, trước mắt tôi là người phụ nữ già cầm chiếc cào bằng sắt từng nhát từng nhát nhịp nhàng vục mạnh xuống đáy sông vớt rong rồi tấp lên thành đống to trên khoang thuyền. Dưới sông còn có một cậu thiếu niên da ngăm ngăm đen đang lặn ngụp xuống để vớt rong. Đống rong rêu to trên khoang thuyền là thành quả lao động của một già một trẻ, họ lao động thật nhịp nhàng, có tiết tấu trên dòng sông này.

Tôi nhìn thấy cậu thiếu niên hướng tới chiếc thuyền rồng chở khách nước ngoài và bắt chước nói "hêlô". Vẻ thần sắc đắc ý của cậu bé hiện lên trên khuôn mặt khiến chúng tôi không nhịn được cười. Lát sau một chiếc thuyền thúng nhỏ bện bằng tre, dài khoảng một thước tây, được quét một lớp dầu hắc đen bóng loáng, vừa vặn một người ngồi hai tay cầm hai mái chèo nhỏ khoát khoát đều tay đẩy thuyền đi về phía trước. Loại thuyền thúng nhỏ quét dầu hắc đen này thật hiếm thấy ở bên nước tôi. Rồi một chiếc thuyền mũi nhọn mà dài chở cát. Hai cô gái đầu đội nón lá, bận áo rộng đứng hai đầu phía mũi và lái, đang nhịp nhàng chèo thuyền. Ánh tà dương chiếu qua khuôn mặt trăng tròn, gió xao động thổi lay lay ống tay áo rộng, nhìn xa xa tưởng như hai tiên nữ xoè đôi cánh múa nhẹ nhàng bay bay giữa khung trời màu lam vô tận, trông thật duyên dáng biết chừng nào! Huế là một thành phố Việt Nam chịu ảnh hưởng sâu sắc văn hoá Trung Quốc. Bên bờ sông Hương có một ngôi đình, bia đá trong đình khắc bài thơ chữ Hán "Hương giang hiểu phiếm" theo thể thơ Đường luật của vua Thiệu Trị.

Bài thơ viết rằng:

Dịch âm: 
                        Nhất phái uyên nguyên hộ đế thành
                        Thanh lưu sấn tảo nhạ lương sinh
                        Ba bình xuân thuỷ lung yên sắc
                        Chu trục thần phong động lỗ thanh
                        Thiên tửu vị can nhu ngạn thụ
                        Sơn hoa do luyến kết vân anh
                        Kỷ hồi hà hiết thương lang khúc
                        Song khuyết phương thăng nhụy nhật minh

Tạm dịch:          Ôm lấy kinh đô nước uốn dòng
                        Thả thuyền ban sớm nhẹ thong dong
                        Dòng xuân sóng lặng trùm hơi khói
                        Nhịp mái thuyền xuôi phủ gió rung
                        Cây cối vấn vương sương vẫn đẫm
                        Cỏ hoa quyến luyến mây còn ngưng
                        Bao lâu nào rõ dòng chưa dứt
                        Đã thấy trời đông hưởng ánh dương
                                                (Thư Trung dịch)

Thành phố Huế có trung tâm dạy ngoại ngữ ở phía Nam sông Hương, hàng đêm có hàng trăm người theo học Trung văn. Phía Bắc sông Hương có khoa Trung văn trường Đại học Sư phạm Huế, hàng ngày nghe giọng đọc âm Bắc Kinh thật rõ.

Ở Huế tôi thường đi bách bộ dọc bờ sông Hương. Người dân địa phương biết tôi là người Trung Quốc, họ thường đến hỏi chuyện, có lúc mời tôi về nhà chơi nữa. Hương Giang ơi! người là minh chứng cho tình hữu nghị Trung - Việt đấy!

Ấn tượng khó quên nhất là đêm trên sông Hương. Vào buổi tôi ánh nắng đã tắt dần, đèn hoa đăng chiếu sáng. Hàng chục hàng trăm thuyền rồng lướt nhẹ trên sông Hương với ánh đèn toả sáng như giải ngân hà lấp lánh màn bạc. Đèn ở các quán xá hai bên bờ sông Hương chiếu xuống hoà với ánh đèn trên mặt nước tạo thành một màn bạc lung linh huyền ảo. Vào khoảng hạ tuần tháng 5 năm 1994 thầy hiệu trưởng và các thầy hiệu phó trường Đại học Sư phạm Huế dẫn chúng tôi đi chơi thuyền rồng và nghe ca hát trên sông Hương.


Nhìn kỹ thì thuyền rồng Việt Nam không giống thuyền rồng Trung Quốc. Bởi lẽ cái đầu rồng của thuyền Việt Nam thiếu đi vẻ uy dũng mãnh liệt mà có khuôn mặt ôn nhu hiền từ, khiến cho du khách cảm thấy thân thiện, gần gũi hơn. Chúng tôi bước lên thuyền sau vài phút khách, chủ chào hỏi nhau, thì đêm biểu diễn bắt đầu. Hầu hết các tiết mục là hát dân ca và khí nhạc Việt Nam. Để hoan nghênh những người khách nước ngoài chúng tôi, tốp dân ca dùng đàn bầu độc tấu bài "Bến Thượng Hải" quen thuộc mà kênh truyền hình thường biểu diễn. Tiếng đàn bầu trầm lắng, khiến chúng tôi cảm thấy vô cùng thân thiết. Là một học giả Đường thi tôi rất hứng thú khi nghe người Việt Nam ngâm bài "Đề đô thành Nam Trang". Người biểu diễn là một cô gái Huế yểu điệu, bận áo dài trắng có khuôn mặt hiền từ. Cô ta thật sự tiêu biểu cho phái đẹp nữ điển hình Việt Nam. Cô ngâm bài thơ bằng âm Hán - Việt, từng chữ, từng câu nghe thật rõ ràng mạch lạc. Ngoài trời dưới ánh trăng vằng vặc, dòng sông Hương tĩnh lặng, bốn chung quanh chỉ có ánh đèn hoa sen toả sáng, nhẹ nhàng trôi nổi trên mặt nước sông. Hương giang ơi! tôi chân thành cảm thụ được vẻ đẹp phong vận độc đáo của nàng mà không có gì có thể thay thế được.

Thầy hiệu trưởng còn cho chúng tôi biết rằng buổi biểu diễn đêm nay là thuộc về một nhóm câu lạc bộ dân ca nhỏ. Tôi đưa mắt tính nhẩm thì cả thảy có 8 người: 5 nam 3 nữ; họ là thành viên tài năng của Câu lạc bộ dân ca Huế. Ngoài ra còn có hai nữ ca sĩ trẻ hơn một cô bận áo dài đen, một cô bận áo dài vàng, họ biểu diễn bài " mười thương" và bài "Huế đáng yêu".

Tất cả họ họp lại thành 10 danh thủ, đó là những cô gái, chàng trai đáng yêu, đặc sắc của thành phố. Thuyền rồng dần dần cập bến chúng tôi lên bờ vừa vặn đã 12 giờ đêm.

Dưới ánh trăng mênh mông bên dòng Hương Giang mờ mờ đứng trên cầu Phú Xuân tựa vào lan can, bất giác một vần thơ chợt hiện ra trong đầu óc tôi:

Dịch âm:           Triêu kiến Hương Giang bích
                        Mộ kiến hương thuỷ u
                        Liên đăng tự nhi thời
                        Long chu ức cố khâu
                        Nan vọng thính ca dạ
                        Cầm thanh vạn ban nhu
                        Độc lập trường kiều bạn
                        Ái thử dị quốc lưu

Tạm dịch:          Sớm ngắm sông Hương trong như ngọc
                        Chiều thấy Hương giang vẻ hơi mờ
                        Đèn hoa sen kết như ngày nhỏ
                        Rẽ nước thuyền rồng, nhớ gò xưa
                        Ta nỡ quên sao, đêm nghe hát
                        Tiếng đàn bầu ai, mãi ngâm nga
                        Bên cầu một mình ta đứng ngắm
                        Nước bạn ta yêu, lúc xa nhà.
                                                                                  12/2002

NGUYỄN XUÂN HOÀ dịch
(Trích dịch bài "Thuyền và tiếng hát trên sông Hương" trong cuốn "Truyện truyền thuyết và phong tục Việt Nam" bằng tiếng Trung Quốc của Học Viện Sư phạm Quảng Tây).

(175/09-03)

----------------
(*) Giáo sư Trung Quốc ở Học viện Sư phạm Quảng Tây, thỉnh giảng tại ĐHSP Huế năm 1994.

 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NGÔ MINHHuế trên 350 năm là thủ phủ Chúa Nguyễn Đằng Trong và Kinh Đô của Đại Việt đã tích tụ nhân tài, vật lực cả quốc gia tạo ra một hệ thống Di sản văn hóa phi vật thể đặc sắc và nổi tiếng như nhã nhạc, lễ hội dân gian, văn hóa ẩm thực... Trong Di sản văn hóa ẩm thực Huế, Văn hóa ẩm thực Cung đình là bộ phận tinh hoa nhất, giá trị nhất!

  • HÀ MINH ĐỨC                   Ký Sau chặng đường dài, vượt qua nhiều đồi núi của vùng Quảng Bình, Quảng Trị, khoảng 3 giờ chiều ngày 25/9/2003, đoàn chúng tôi về đến thành phố Huế. Xe chạy dọc bờ sông Hương và rẽ vào khu vực trường Đại học Sư phạm Huế. Anh Hồ Thế Hà, Phó Chủ nhiệm khoa Văn; chị Trần Huyền Sâm, giảng viên bộ môn Lý luận văn học cùng với các em sinh viên ra đón chúng tôi. Nữ sinh mặc áo dài trắng và tặng các thầy những bó hoa đẹp.

  • BĂNG SƠN           Tuỳ bútDòng sông Hồng Hà Nội là nguồn sữa phù sa và là con đường cho tre nứa cùng lâm sản từ ngược về xuôi. Dòng sông Cấm Hải Phòng là sông cần lao lam lũ, hối hả nhịp tầu bè. Dòng sông Sài Gòn của thành phố Hồ Chí Minh là váng dầu ngũ sắc, là bóng cần cẩu nặng nề, là những chuyến vào ra tấp nập... Có lẽ chỉ có một dòng sông thơ và mộng, sông nghệ thuật và thi ca, sông cho thuyền bềnh bồng dào dạt, sông của trăng và gió, của hương thơm loài cỏ thạch xương bồ làm mê mệt khách trăm phương, đó là sông Hương xứ Huế, là dòng Hương Giang đất cố đô mấy trăm năm, nhưng tuổi sông thì không ai đếm được.

  • PHAN THUẬN THẢO                Chiều chiều trước bến Vân Lâu                Ai ngồi, ai câu, ai sầu, ai thảm,                Ai thương, ai cảm, ai nhớ, ai trông.                Thuyền ai thấp thoáng bên sông,                Đưa câu Mái đẩy chạnh lòng nước non.                                              (Ưng Bình Thúc Giạ)

  • LÃNG HIỂN XUÂNChẳng hiểu sao, từ thuở còn thơ ấu, tôi đã có một cảm nhận thật mơ hồ nhưng cũng thật xác tín rằng: Chùa chính là nơi trú ngụ của những ông Bụt hay bà Tiên và khi nào gặp khó khăn hay đau khổ ta cứ đến đó thì thế nào cũng sẽ được giải toả hay cứu giúp!

  • BÙI MINH ĐỨCNói đến trang phục của các Cụ chúng ta ngày xưa là phải nhắc đến cái búi tó và cái khăn vấn bất di bất dịch trên đầu các Cụ. Các Cụ thường để tóc dài và vấn tóc thành một lọn nhỏ sau ót trông như cái củ kiệu nên đã được dân chúng đương thời gọi là “búi tó củ kiệu”. Ngoài cái áo lương dài, cái dù đen và đôi guốc gỗ, mỗi khi ra đường là các Cụ lại bối tóc hình củ kiệu và vấn dải khăn quanh trên đầu, một trang phục mà các cụ cho là đứng đắn nghiêm trang của một người đàn ông biết tôn trọng lễ nghĩa. Trang phục đó là hình ảnh đặc trưng của người đàn ông xứ ta mãi cho đến đầu thế kỷ thứ 20 mới bắt đầu có nhiều biến cải sâu đậm

  • VÕ NGỌC LANBuổi chiều, ngồi trên bến đò Quảng Lợi chờ đò qua phá Tam Giang, tôi nghe trong hư vô chiều bao lời ru của gió. Lâu lắm rồi, tôi mới lại được chờ đò. Khác chăng, trong cảm nhận tôi lại thấy bờ cát bên kia phá giờ như có vẻ gần hơn, rõ ràng hơn.

  • HỒNG NHUTôi vẫn trộm nghĩ rằng: Tạo hóa sinh ra mọi thứ: đất, nước, cây cỏ chim muông... và con người. Con người có sau tất cả những thứ trên. Vì vậy cỏ cây, đất nước... là tiền bối của con người. Con người ngoài thờ kính tổ tiên ông bà cha mẹ, những anh hùng liệt sĩ đã mất... còn thờ kính Thần Đất, Thần Nước, Thần Đá, Thần Cây...là phải đạo làm người lắm, là không có gì mê tín cả, cho dù là con người hiện đại, con người theo chủ nghĩa vô thần đi nữa! Chừng nào trên trái đất còn con người, chừng đó còn có các vị thần. Các vị vô hình nhưng không vô ảnh và cái chắc là không vô tâm. Vì sao vậy? Vì các vị sống trong tâm linh của con người, mà con người thì rõ ràng không ai lại tự nhận mình là vô tâm cả.

  • MẠNH HÀTôi không sinh ra ở Huế nhưng đã có đôi lần đến Huế, khác với Hà Nội hay Thành phố Hồ Chí Minh, Huế có nét trầm lắng, nhẹ nhàng, mỗi lần khi đến Huế tôi thường đi dạo trên cầu Trường Tiền, ngắm dòng Hương Giang về đêm, nghe tiếng ca Huế văng vẳng trên những chiếc thuyền rồng du lịch thật ấn tượng. Cho đến nay đã có biết bao bài thơ, bài hát viết về Huế thật lạ kỳ càng nghe càng ngấm và càng say: Huế đẹp, Huế thơ luôn mời gọi du khách.

  • VÕ NGỌC LANNgười ta thường nói nhiều về phố cổ Hội An, ít ai biết rằng ở Huế cũng có một khu phố cổ, ngày xưa thương là một thương cảng sầm uất của kinh kỳ. Đó là phố cổ Bao Vinh. Khu phố này cách kinh thành Huế chừng vài ba cây số, nằm bên con sông chảy ra biển Thuận An. Đây là nơi ghe, thuyền trong Nam, ngoài Bắc thường tụ hội lại, từ cửa Thuận An lên, chở theo đủ thứ hàng hoá biến Bao Vinh thành một thương cảng sầm uất vì bạn hàng khắp các chợ trong tỉnh Thừa Thiên đều tập trung về đây mua bán rộn ràng.

  • NGUYỄN XUÂN HOATrước khi quần thể di tích cố đô Huế được công nhận là di sản văn hoá thế giới, thành phố Huế đã được nhiều người nhìn nhận là một mẫu mực về kiến trúc cảnh quan của Việt Nam, và cao hơn nữa - là “một kiệt tác bài thơ kiến trúc đô thị” như nhận định của ông Amadou Mahtar  M”Bow - nguyên Tổng Giám đốc UNESCO trong lời kêu gọi tháng 11-1981.

  • DƯƠNG PHƯỚC THU                       Bút kýXứ Thuận Hóa nhìn xa ngoài hai ngàn năm trước, khi người Việt cổ từ đất Tổ Phong Châu tiến xuống phía Nam, hay cận lại gần hơn bảy trăm năm kể từ ngày vua Trần Anh Tông cho em gái là Huyền Trân Công chúa sang xứ Chàm làm dâu; cái buổi đầu ở cương vực Ô Châu ác địa này, người Việt dốc sức tận lực khai sông mở núi, đào giếng cày ruộng, trồng lúa tạo vườn, dựng nhà xây đình, cắm cây nêu trấn trị hung khí rồi thành lập làng xã.

  • TRƯƠNG THỊ CÚCSông Hương, một dòng sông đẹp, sôi nổi với những ghềnh thác đầu nguồn, mềm mại quàng lấy thành phố như một dải lụa, hài hoà tuyệt diệu với thiên nhiên xinh đẹp và hệ thống thành quách, cung điện, lăng tẩm, đền chùa; với hàng trăm điệu hò, điệu lý; với những ngày hội vật, hội đua trải, đua ghe; với mảnh vườn và con người xứ Huế, là nguồn cảm hứng vô tận của người nghệ sĩ, thu hút sự say mê của nhiều khách phương xa. Không những là một dòng sông lịch sử, sông Hương còn là không gian văn hoá làm nẩy sinh những loại hình nghệ thuật, những hội hè đình đám, là không gian của thi ca, nhạc hoạ, là dòng chảy để văn hoá Huế luân lưu không ngừng.

  • TÔN NỮ  KHÁNH TRANG              Khi bàn về văn hoá ẩm thực, người ta thường chú trọng đến ẩm thực cung đình, hay dân gian, và chủ yếu đề cập đến sinh hoạt, vai trò, địa vị xã hội... hơn là nghĩ đến hệ ẩm thực liên quan đến đời sống lễ nghi.

  • TRƯƠNG THỊ  CÚC• Bắt nguồn từ những khe suối róc rách ở vùng núi đại ngàn A Lưới - Nam Đông giữa Trường Sơn hùng vỹ, ba nhánh sông Tả Trạch, Hữu Trạch và nguồn Bồ đã lần lượt hợp lưu tạo thành hệ thống sông Hương, chảy miên man từ vùng núi trung bình ở phía đông nam A Lưới, nam Nam Đông, băng qua những dãy núi đồi chập chùng ở Hương Thuỷ, Hương Trà, Phong Điền rồi xuôi về đồng bằng duyên hải, chảy vào phá Tam Giang để đổ nước ra biển Đông.

  • NGUYỄN KHẮC MAIỞ xứ Huế có những tên làng quê mà nghĩa của chúng vẫn còn là sự ám ảnh kiếm tìm giải thích, chắc chắn chúng phải có nghĩa cụ thể nào đó. Người xưa không bao giờ đặt tên một vùng đất mà chẳng có nghĩa gì cả cứ như là người Mã Lai họ đặt tên vùng đất kinh đô cũng lần ra cái nghĩa đó là “cửa sông bùn lầy” (Kua-la-lăm-pua). Những cái tên như Kim Long, An Hoà, Dương Xuân, Phú Tài, Phú Mậu thì những ai có chút hiểu biết chữ Hán đều có thể lần tìm ý nghĩa. Nhưng có những cái tên làng quê thật khó đoán được cái nghĩa của chúng.

  • BÙI MINH ĐỨC Ngày nay, hễ nói đến đường để nấu chè là ai ai ở Huế cũng nghĩ đến đường cát trắng, đến thứ đường bột trắng tinh đã được tinh lọc do các nhà máy đường tân tiến sản xuất. Có người cũng còn nhớ đến đường phèn để chưng với chanh ăn khi bị ho, hoặc đường tinh thể là thứ đường đặc biệt màu vàng dùng để uống với cà phê cho thêm phần đậm đà. Nhưng chẳng ai có thể nhắc đến chiếc bánh đường đen ở Huế của thuở nào.

  • NGUYỄN TIẾN VỞNKinh Dịch (Chu Dịch) là sách về sự biến đổi. Dịch, nói gọn lại là biến đổi. Tinh thần xuyên suốt của Kinh Dịch là quy luật chuyển dời, biến hoá của vạn vật trong cõi trời đất. Mọi vật, bất kể to lớn như vũ trụ, hay nhỏ nhoi như các nguyên tử, đều không bao giờ đứng yên. Mọi sự, từ chuyện người có thể biết đến chuyện chỉ trời đất biết, cũng vận động biến hoá khôn lường.

  • PHAN THUẬN AN            Dạ thưa xứ Huế bây giờ,Vẫn còn núi Ngự bên bờ sông Hương.                                              (Bùi Giáng)

  • NGUYỄN VĂN THỊNHCũng như trên cả nước, trước cách mạng tháng Tám, làng (tên gọi chữ Hán là xã), ở Thừa Thiên Huế là một đơn vị cơ bản trong tổ chức hành chính của các vương triều.